Tuesday, 24 July 2018

Giảm giá VND: Không quá đáng sợ! (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 25/7/2018, bản gốc, tiêu đề do báo đặt lại)

https://doanhnhansaigon.vn/van-de/giam-gia-vnd-khong-qua-dang-so-1086907.html

Tỷ giá VND/USD đã và đang tăng liên tục, đặc biệt sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ngừng bán USD với giá rẻ để can thiệp thị trường hôm 23/7. Như vậy, xem ra sự tăng tỷ giá là xu thế không thể đảo ngược ít nhất từ nay cho đến cuối năm, nhất là nếu cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung tiếp tục leo thang, Trung Quốc khơi mào chiến tranh tiền tệ, trong khi Fed sẽ tiếp tục nâng lãi suất để kiềm chế lạm phát ở Mỹ trong phần còn lại của năm nay.


Trước bối cảnh này, vẫn có nhiều ý kiến trái chiều về việc chủ động hoặc thụ động phá giá VND, để VND yếu đi so với USD. Luồng ý kiến này chủ yếu dựa trên quan ngại tỷ giá là một vấn đề nhạy cảm ở Việt Nam, và phá giá sẽ có ảnh hưởng tiêu cực lên luồng vốn FDI vào Việt Nam, gia tăng áp lực lạm phát, tăng độ bất định trong điều hành chính sách tiền tệ/tỷ giá có thể dẫn đến những phản ứng quá mức của nhà đầu tư, càng gây thêm áp lực mất giá với VND.

Nhìn bao quát, chưa bàn đến chuyện đúng sai về 2 luồng ý kiến phản đối và ủng hộ việc phá giá, có thể thấy việc can thiệp để đảo ngược hoặc ngăn ngừa xu hướng mất giá VND ở Việt Nam sẽ gây tổn thất lớn cho NHNN. Như đã biết, trong tuần trước, NHNN đã bán ra khoảng 2 tỷ USD (riêng ngày 20/7 là 300 triệu USD) (1). Mặc dù vậy, tỷ giá trong ngân hàng và trên thị trường tự do chưa có dấu hiệu lắng dịu, thậm chí vẫn còn âm ỷ tăng.

Đáng nói là cứ với cái đà can thiệp như vậy thì chắc chắn hàng chục tỷ USD trong quỹ dự trữ ngoại hối sẽ nhanh chóng “bốc hơi” mà không mang lại kết quả như ý muốn. Bởi, việc can thiệp như vậy cũng chỉ có tác dụng làm chậm lại, làm giảm áp lực mất giá VND chứ không giải quyết được yếu tố căn bản nâng đỡ tỷ giá, vốn đang rất không thuận cho VND, một phần như nói qua ở trên.

Do đó, sự ngừng bán USD với giá rẻ của NHNN hôm 23/7 là một điều dễ hiểu và hoàn toàn hợp lý. Vấn đề đặt ra từ đây cho luồng ý kiến phản đối phá giá VND là, vậy nếu NHNN không bán USD giá rẻ để can thiệp nữa thì ai và sẽ phải làm gì để ngăn chặn xu hướng mất giá này?

Đáng tiếc là chúng ta chỉ mới nghe nhiều về lập luận phản đối phá giá mà hầu như chưa nghe thấy biện pháp, công cụ gì để ổn định tỷ giá, không phải phá giá, ngoài chuyện bán USD can thiệp của NHNN. Một số biện pháp khác có thể có tác dụng như hạ lãi suất tiền gửi USD, thắt chặt điều kiện mua, mang ngoại tệ ra nước ngoài, vay ngoại tệ, kết hối v.v… thì cũng đã và đang được thực hiện, hầu như không còn thêm room để phát huy một cách có hiệu quả hơn nữa. Đó là chưa kể những biện pháp này (chủ yếu mang tính hành chính) ít nhiều đều có tác động tiêu cực lên nền kinh tế nói chung.

Riêng biện pháp nâng lãi suất để bảo vệ tỷ giá thì hầu như không được đề cập đến, có lẽ bởi biện pháp này được coi là nhạy cảm, khó thực hiện trong bối cảnh NHNN và hệ thống ngân hàng đang phải phấn đấu giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Như vậy, có thể khái quát lại rằng việc phá giá VND (hay để VND yếu đi) là một điều không thể tránh được. Nói cách khác, làm ngược lại là điều không tưởng, không có lợi, không nên và… không thể! Vậy thì tốt nhất là hãy chọn cách làm ít thiệt hại nhất mà lại dễ thực hiện nhất là để VND yếu đi theo đòi hỏi của thị trường.

Tất nhiên là để VND yếu đi sẽ gây ra những tác hại theo lý thuyết là làm tăng áp lực lạm phát và giảm luồng vốn FDI vào Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế những tác hại này không nhất thiết xảy ra đúng như vậy.

Cụ thể, về tác động của phá giá lên lạm phát, hãy cùng xem mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát ở Việt Nam trong thời gian chục năm qua như trong đồ thị dưới đây.

Lạm phát và tỷ giá bình quân từ 2007 đến 2018


Theo lý thuyết và theo lập luận của những người phản đối phá giá VND, nếu VND yếu đi thì lạm phát sẽ tăng lên, và ngược lại. Tuy nhiên, trên thực tế, đồ thị trên cho thấy 2 đại lượng này không vận động theo hướng như vậy trong nhiều thời điểm ở Việt Nam.

Ví dụ, trong các năm 2008, 2009, 2013, và 2015, tỷ giá tăng nhưng lạm phát lại giảm đi (tăng trưởng ở mức âm). Ngược lại, trong các năm 2010 và 2016, tỷ giá giảm nhưng lạm phát lại tăng lên.

Sẽ có người lập luận rằng ngoài tỷ giá còn có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát như lạm phát của thế giới, điều hành chính sách giá của Chính phủ, và tốc độ tăng cung tiền của NHNN v.v… nên không thể chỉ dựa vào biến động của tỷ giá để giải thích/dự đoán xu hướng của lạm phát.

Lập luận trên là hoàn toàn đúng. Nhưng nếu vậy, với cùng với logic này thì không thể chỉ dựa vào mỗi một yếu tố, ví dụ, tỷ giá để cho rằng khi phá giá VND thì lạm phát sẽ tăng lên. Cũng tương tự như vậy, không thể chỉ dựa vào mỗi tỷ giá để phân tích xu hướng FDI rồi kết luận rằng phá giá VND sẽ làm giảm FDI vào Việt Nam, và từ đây suy ra rằng do FDI suy giảm nên tăng trưởng GDP cũng bị suy giảm trong những năm trước. Cung cách phân tích kiểu này sẽ tạo ra những kết quả sai lệch, những kết luận thiên kiến và phiến diện.

Tóm lại, trong hoàn cảnh nguồn lực can thiệp mỏng, các biện pháp can thiệp có giới hạn, cũng như sự tồn tại không hiển nhiên của mối quan hệ giữa phá giá với gia tăng lạm phát hay sụt giảm FDI, thì việc để VND yếu đi thuận theo điều kiện của thị trường là điều cần thiết và nên làm.    

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).