Diễn biến của tỷ
giá VND/USD trong hai tháng qua đã cho thấy có những chuyển biến rất mới về
chính sách liên quan của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng như sự phối hợp về
chính sách (chính sách tài khóa và tiền tệ) giữa NHNN và Bộ Tài chính.
Trước tiên, nói về
chính sách tỷ giá của NHNN, bắt đầu từ trung tuần tháng 6, VND bắt đầu phải đối
mặt với áp lực mất giá ngày càng mạnh hơn theo đà leo thang của cuộc chiến
thương mại Mỹ - Trung và sự mạnh lên của USD. Như thường lệ, dư luận lại xôn
xao và kỳ vọng NHNN sẽ có những hành động ổn định tỷ giá như trước đây. Đáp lại,
và cũng như thường lệ, NHNN lên tiếng trấn an với tuyên bố có đủ công cụ và nguồn
lực để ổn định tỷ giá. Nhưng điểm mới mà ít người để ý đến là trong thông điệp ổn
định tỷ giá này, sự “ổn định” chỉ mang tính tương đối, vì tỷ giá tuy chỉ được
phép biến động trong một biên độ ấn định nhưng biên độ này lại xoay quanh tỷ
giá trung tâm là cái mà sẽ biến động, thậm chí tăng lên, hàng ngày.
Do đó, không có
gì lạ khi tỷ giá trong ngân hàng và trên thị trường đã biến động (tăng) khá mạnh
mà NHNN vẫn chưa có hành động can thiệp nào. Và sau đó, NHNN mới có hành động
can thiệp đầu tiên là đặt ra giá bán USD tại Sở Giao dịch NHNN ở mức 22.050
VND/USD. Tuy nhiên, hành động can thiệp này diễn ra khá ngắn ngủi, kéo dài
trong đôi ba ngày, với tổng số USD bán ra khoảng 2 tỷ USD. Là một con số khá nhỏ,
đặc biệt so với những lần can thiệp trước đây và so với độ lớn của quỹ dự trữ
ngoại hối, nên có lẽ nó chỉ mang tính biểu trưng, xoa dịu tâm lý và thăm dò thị
trường là nhiều.
Trong khi đó, lãi
suất đã có những biến động bất thường với việc lãi suất liên ngân hàng tăng đột
ngột và mạnh liên tục trong mấy tuần qua. Chẳng hạn, lãi suất qua đêm đã nhanh
chóng tăng từ dưới 1%/năm lên trên các mức 2%/năm, 3%/năm, rổi vượt 4%/năm, đạt
4,27%/năm vào ngày 26/7. Chắc chắn rằng lãi suất tăng lên mạnh như vậy đã góp
phần giải tỏa phần nào áp lực lên tỷ giá, giảm gánh nặng cho NHNN phải can thiệp
để không cho tỷ giá tăng sốc, ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý người dân.
Nguyên nhân của đợt
tăng lãi suất đột ngột và mạnh này có thể truy ngược từ thời điểm cuối tháng 6
khi Chính phủ báo cáo có khoảng 150 nghìn tỷ đồng tiền ngân sách được điều chuyển
về để ở NHNN. Trước đó, đương nhiên nguồn tiền này được gửi ở các ngân hàng
thương mại. Việc điều chuyển này có thể thấy rõ qua báo cáo của một số ngân
hàng thương mại đã có báo cáo tài chính quý 2 như Vietcombank. Theo đó, số dư
tiền gửi của Kho bạc Nhà nước đã giảm mạnh xuống còn 67,5 nghìn tỷ cuối quý 2 từ
mức 127 nghìn tỷ cuối quý 1 ở ngân hàng này.
Điểm khác biệt
chính giữa việc Kho bạc Nhà nước gửi tiền ngân sách ở ngân hàng thương mại với
gửi ở NHNN là gửi ở NHNN thì tiền coi như bị “nhốt”, không vào lưu thông được.
Điều này đồng nghĩa với việc làm giảm cung tiền, và, do đó, làm tăng lãi suất,
đặc biệt trong 2 tuần qua. Cũng chính vì sự tăng mạnh của lãi suất liên ngân
hàng như hiện nay nên có thể hiểu rằng số tiền ngân sách được điều chuyển về để
ở NHNN vẫn còn nằm đó, (đa phần) chưa được chuyển trở lại Kho bạc để chi tiêu
hay gửi tại các ngân hàng thương mại.
Cũng cần nói thêm
là trong thời gian này NHNN cũng đã tung ra lưu thông một lượng tiền lớn thông
qua lượng tín phiếu NHNN đáo hạn và qua kênh cầm cố giấy tờ có giá. Tuy nhiên lượng
tiền này nhỏ hơn lượng tiền ngân sách để ở NHNN nói trên (báo cáo cho thấy số
dư tín phiếu NHNN hồi đầu tháng 6 là vào khoảng 150 nghìn tỷ đồng, nhưng đã giảm
mạnh xuống còn 59 nghìn tỷ đồng hồi đầu tuần trước).
Qua hành động điều
chuyển tiền ngân sách ở trên, rõ ràng là đã có một bước biến chuyển rất mới
trong sự phối hợp chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ theo chỉ đạo của
Chính phủ. Cũng là nguồn tiền đó của ngân sách, có thể đang tạm thời dư thừa do
chưa giải ngân được cho các chương trình đầu tư công của Chính phủ, nhưng đã được
Bộ Tài chính gửi ở NHNN thay vì gửi ở ngân hàng thương mại trong một sự phối hợp
nhằm hỗ trợ ổn định tỷ giá.
Quan trọng không
kém, việc điều chuyển tiền này còn có ý nghĩa là làm giảm áp lực lạm phát khi
chỉ số giá tiêu dùng đã tăng mạnh trong 2 tháng qua.
Cũng cần lưu ý rằng
lãi suất liên ngân hàng tăng nhanh và mạnh như trên có thể gây tác động bất lợi
cho doanh nghiệp và, do đó, tăng trưởng GDP khi lãi suất huy động tiền gửi dân
cư và doanh nghiệp cũng tăng lên theo lãi suất liên ngân hàng.
Tuy nhiên, do VND
đã suy yếu đi đáng kể so với thời điểm đầu năm (đã mất hơn 2% giá trị so với
USD) và xem ra sẽ còn tiếp tục suy yếu nếu NHNN không tích cực can thiệp thêm
như đang được thấy hiện nay, nên thực chất tăng trưởng kinh tế lại được hỗ trợ
bởi sự giảm giá của VND thông qua kênh thương mại (xuất khẩu tăng lên, nhập khẩu
giảm đi). Do đó, về tổng thể, tác dụng tích cực đến từ sự suy yếu của VND sẽ bù
trừ cho tác động tiêu cực từ việc tăng lãi suất.
Như vậy, dường
như NHNN đã chuyển sang duy trì một chính sách “trung dung” – một mặt, để tiền
đồng yếu đi theo điều kiện thị trường mà không phải bận tâm can thiệp bằng mọi
giá như trước đây, mặt khác (phối hợp với Bộ Tài chính) tăng lãi suất, vừa để hỗ
trợ tỷ giá, vừa giảm áp lực lạm phát, đồng thời vẫn hướng đến mục tiêu là duy
trì tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh có các cú sốc bên ngoài (chiến tranh
thương mại và sự mạnh lên của USD).
So với những lựa
chọn chính sách đã thi hành trước đây thì rõ ràng chính sách phối hợp các công
cụ và các bên (Bộ Tài chính và NHNN) như thế này là phù hợp và có tính duy trì
cao hơn.
No comments:
Post a Comment