Wednesday 31 July 2019

Vì sao các ngân hàng trên thế giới "đua nhau" ứng dụng Blockchain? (Bài đăng trên CafeF, 31/7/2019)

http://cafef.vn/khong-chi-giam-thieu-thoi-gian-giao-dich-trong-tai-tro-thuong-mai-blockchain-con-co-the-cong-hien-cho-nganh-ngan-hang-nhung-dieu-gi-20190731084637875.chn

Việt Nam vừa có giao dịch ngân hàng đầu tiên sử dụng Blockchain. Còn trên thế giới, nhiều ngân hàng lớn cũng đang tích cực áp dụng công nghệ này bởi không chỉ giúp giảm thiểu thời gian giao dịch trong tài trợ thương mại, Blockchain còn đem đến cho ngành ngân hàng nhiều hơn thế.


Ngày càng có nhiều ngân hàng trên thế giới đang tích cực áp dụng công nghệ blockchain vào hàng loạt nghiệp vụ của ngành như chi trả, hệ thống thanh toán bù trừ, huy động vốn, chứng khoán, cho vay, và tài trợ thương mại,...
Các ngân hàng tích cực áp dụng công nghệ blockchain bởi nói một cách ngắn gọn và đơn giản hóa, công nghệ này cho phép các bên đối tác trong các giao dịch liên quan vốn không có lòng tin vào nhau trở nên đồng ý với nhau về trạng thái của dữ liệu giao dịch mà không cần phải có sự tham gia của một bên trung gian. Bằng cách cung cấp một sổ cái mà không bị quản lý/quản trị bởi bất kỳ ai, công nghệ blockchain có thể cung cấp các dịch vụ đặc thù nào đó – chi trả hoặc chứng khoán hóa – mà không cần phải thông qua một bên trung gian, ví dụ như ngân hàng.
Hơn thế, blockchain còn cho phép sử dụng công cụ như "hợp đồng thông minh" – một giao thức máy tính nhằm tạo thuận lợi, xác thực và buộc thực thi trên nền tảng kỹ thuật số các loại hợp đồng – là cái sẽ giúp tự động hóa tất cả các quy trình, từ tuân thủ (compliance) đến xử lý các yêu cầu chi trả, hoặc thậm chí là phân bổ thừa kế từ một di chúc thừa kế.
Đối với những giao dịch không cần đến mức độ phi tập trung hóa cao độ - nhưng vẫn được lợi từ việc phối hợp tốt hơn – thì "người anh em" của blockchain, tức "công nghệ sổ cái phân tán" (distributed ledger technology - DLT) có thể giúp các doanh nghiệp thiết lập nền quản trị và các tiêu chuẩn tốt hơn xung quanh việc hợp tác và chia sẻ dữ liệu. DLT cho phép đạt được sự đồng thuận về sao chép, chia sẻ và đồng bộ hóa dữ liệu số trên nhiều trang mạng, quốc gia, hoặc tổ chức mà không cần, không có quản trị viên trung tâm cũng như trung tâm lưu trữ dữ liệu tập trung.
Để dễ hình dùng hơn về vai trò của blockchain và DLT trong ngành tài chính, ngân hàng trên thế giới, hãy lấy ví dụ về ứng dụng blockchain và DLT vào ngành tài trợ thương mại trên thế giới.
Nghiệp vụ này nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro, cấp tín dụng và đảm bảo rằng nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu tham gia được vào thị trường thương mại quốc tế. Tài trợ thương mại quốc tế đóng một vai trò trọng yếu trong hệ thống tài chính quốc tế, với tổng giá trị tài trợ thương mại toàn cầu hiện được ước tính vượt mức 9.000 tỷ USD. Tuy vậy, thực trạng của ngành này là nó vẫn chủ yếu hoạt động dựa trên hệ thống giấy tờ, chứng từ in/viết tay, lạc hậu, thủ công, và chi phí cao. Tín dụng thư vẫn phải được sử dụng bởi các bên như một chứng từ cam kết thanh toán.
Công nghệ blockchain, thông qua việc cho phép các công ty chứng minh được một cách an toàn và dưới dạng số hóa về xuất xứ hàng hóa, chi tiết sản phẩm và giao dịch (và tất cả các chứng từ khác), sẽ giúp nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu cung cấp cho nhau bằng chứng xác thực hơn về chuyện chuyên trở hàng hóa và giao hàng cũng như bảo đảm thanh toán. Và cũng như minh họa trong hình dưới đây, do được số hóa dựa trên công nghệ blockchain nên việc phát hành và chuyển tiếp các chứng từ phát sinh giữa các ngân hàng tham gia vào thanh toán qua thư tín dụng giữa người bán và mua, và cũng như giữa ngân hàng với người bán và mua, cũng trở nên nhanh chóng hơn, rút ngắn được thời gian hoàn tất một hợp đồng thương mại quốc tế, đồng thời nhờ đó mà giảm thiểu chi phí phát sinh trong giao dịch mua bán.
Vì sao các ngân hàng trên thế giới đua nhau ứng dụng Blockchain? - Ảnh 1.
Mô hình thanh toán qua tín dụng thư sử dụng công nghệ blockchain
Quan trọng không kém, công nghệ blockchain không chỉ giảm được thời gian và chi phí giao dịch, mà còn giúp giảm thiểu rủi ro làm giả chứng từ trong tài trợ thương mại quốc tế. Các vụ việc lừa đảo làm giả chứng từ tồn kho kim loại xảy ra gây thiệt hại nhiều triệu USD cho các ngân hàng quốc tế hàng đầu như Citigroup và Standard Chartered vào năm 2014 ở Thanh Đảo, Trung Quốc, và ANZ vào năm 2016 cho thấy trình độ làm giả chứng từ của giới tội phạm quốc tế đã đạt mức "thượng thừa" mà ngay cả các tổ chức chuyên nghiệp cũng khó mà hoàn toàn tránh khỏi là nạn nhân.
Giải pháp duy nhất cho vấn nạn làm giả chứng từ là ứng dụng công nghệ. Các ngân hàng lớn trên thế giới đã hợp tác với nhau để tạo ra các hệ thống dựa trên sổ cái số hóa sử dụng công nghệ blockchain, như của Komgo SA, để theo dõi các giao dịch. Trên các hệ thống này, các ngân hàng thành viên có thể chia sẻ thông tin về các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang tìm cách tiếp cận tài trợ thương mại ngân hàng, cho phép các ngân hàng kiểm tra chéo thông tin về các ngân hàng có khả năng sẽ cấp tín dụng thương mại cho doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy quá trình ra quyết định đồng thời tránh được tình trạng như trước đây, ví dụ, doanh nghiệp lừa đảo sử dụng chứng từ hàng tồn kho giả bằng giấy để vay nhiều ngân hàng cùng lúc.
Đến đây, sẽ có một quan ngại là doanh nghiệp chưa sẵn sàng với các nền tảng giao dịch dựa trên công nghệ blockchain, có lẽ bởi xuất phát từ sự vẫn còn "xa cách" của công nghệ blockchain đối với người bình thường. Thực tế thì những nền tảng giao dịch chẳng hạn như Komgo nói ở trên, thành lập từ tháng 8/2018, vốn là sản phẩm của sự liên doanh giữa 15 cổ đông gồm những ngân hàng lớn trên thế giới như ABN Amro, BNP Paribas, Citi, Crédit Agricole, ING, MUFG v.v... được thiết kế để tương tác thân thiện và hữu ích với người sử dụng.
Trên nền tảng này, các doanh nghiệp được cung cấp chào giá từ các ngân hàng thành viên cho các sản phẩm tài chính như tài trợ thương mại (cho vay xuất nhập khẩu), phát hành tín dụng thư hoặc tín dụng thư dự phòng, và ngân hàng thì có thể phê duyệt ngay các sản phẩm này cho khách hàng thông qua cùng nền tảng. Thêm nữa, tất nhiên là khách có thể yêu cầu và nộp các số liệu và chứng từ điện tử cho nhau và cho ngân hàng liên quan cũng trên nền tảng này. Việc giao dịch trên nền tảng như vậy, về nguyên tắc, cũng không phức tạp và khó khăn hơn việc vay vốn trực tuyến, vốn đã trở nên rất đơn giản, dễ tiếp cận bởi đại chúng. 

Friday 26 July 2019

Trong “ma trận” trái phiếu doanh nghiệp (Bài đăng trên TBKTSG, bản gốc, 26/7/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/291883/trong-ma-tran-trai-phieu-doanh-nghiep-.html

TBKTSG số 29 phát hành tuần trước có bài viết nhan đề “Nhận diện những nhân tố cản trở thị trường trái phiếu doanh nghiệp”. Theo đó, việc nhà đầu tư hiện dễ bị lạc/dụ vào “ma trận” trái phiếu doanh nghiệp với lẫn lộn thông tin thật giả, mập mờ sẽ góp phần cản trở sự phát triển lành mạnh của thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam. Trong bài viết này, chúng ta sẽ phân tích sâu thêm về vấn đề này, chỉ ra những nguy cơ lớn đi kèm với một thị trường trái phiếu doanh nghiệp bất minh bạch. Một số giải pháp giám sát hữu hiệu cũng sẽ được đề xuất để “lập lại trật tự” trên thị trường này, giúp trái phiếu doanh nghiệp thực sự trở thành công cụ thúc đẩy đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.  
Không chỉ làm “trắng tay” nhà đầu tư...
Trong lĩnh vực tài trợ vốn qua ngân hàng, chủ nợ cuối cùng là người gửi tiền, một dạng đầu tư dưới dạng tiền gửi vào ngân hàng thương mại. Nhưng người cho vay doanh nghiệp và, do đó, chịu rủi ro mất vốn, chính là ngân hàng chứ không phải người gửi tiền. Để giảm rủi ro tín dụng (rủi ro mất vốn khi cho vay), ngân hàng phải tiến hành phân tích, đánh giá người vay, khoản vay một cách kỹ lưỡng, giám sát chặt chẽ người vay trước, trong và thậm chí cả sau khi cho vay (khi người vay mất khả năng thanh toán). Không những vậy, ngân hàng còn có nhiều cách tự phòng vệ, ví dụ như giữ tài sản thế chấp của người vay và đa dạng hóa các khoản vay của mình.
Ngược lại, trong lĩnh vực tài trợ vốn bằng trái phiếu doanh nghiệp, chủ nợ cuối cùng là phần lớn là nhà đầu tư đại chúng, là những người tự quyết định đầu tư và tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình. Nhà đầu tư đại chúng thì đương nhiên sẽ đông đảo về số lượng, đa dạng về trình độ, nhận thức, và thường có xu hướng ra quyết định đầu tư dựa trên cơ sở lòng tin chứ không phải là những đánh giá chặt chẽ người vay, khoản vay như ở các ngân hàng. Bởi vậy, mỗi khi có tin xấu về doanh nghiệp phát hành trái phiếu (kinh doanh thua lỗ, gian lận trong phát hành...), nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp chỉ còn biết đổ xô bán tháo trái phiếu. Không chỉ có nguy cơ chịu thiệt hại lớn khi giá trái phiếu rơi tự do mà nhà đầu tư còn chịu rủi ro trắng tay nếu không kịp “thoát hàng” để rồi không còn tìm được người mua, dù với giá “bèo”.
Tuy vậy, hậu quả nguy hại không chỉ xảy ra với nhà đầu tư đại chúng mà còn có khả năng lan rộng ra toàn nền kinh tế. Trái phiếu doanh nghiệp thực tế được nắm giữ bởi không chỉ nhà đầu tư đại chúng mà còn các quỹ quản lý tài sản, quỹ đầu tư mạo hiểm, thậm chí các ngân hàng và các tổ chức/doanh nghiệp (phi) tài chính khác. Đến lượt mình, dựa trên hàng hóa là trái phiếu doanh nghiệp, các quỹ, các tổ chức tài chính lại thiết kế và bán ra các sản phẩm tài chính ra thị trường mà người mua lại chính là các quỹ, các tổ chức/doanh nghiệp khác. Cứ như vậy nhân lên để rồi mỗi khi có một đợt bán tháo trái phiếu doanh nghiệp thì thị trường sẽ lại một phen chao đảo mạnh, với chấn động lan truyền ra toàn nền kinh tế. Bởi rủi ro trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ lan ra các thị trường tài chính khác, đẩy lợi suất trái phiếu Chính phủ, lãi suất ngân hàng tăng mạnh, nhiều doanh nghiệp cũng vì thế mà đối mặt với mất khả năng thanh toán.
Giải pháp
Hy vọng nhà đầu tư “khôn” ra, tránh được những khoản đầu tư vào các trái phiếu doanh nghiệp “xấu” để không kích hoạt hàng loạt đổ vỡ tiếp theo sẽ chỉ là ảo vọng. Lý do chủ yếu không chỉ, như đã nói, nằm ở sự cả tin và trình độ nhận thức biến thiên quá lớn giữa các nhà đầu tư, kể cả nhà đầu tư tổ chức, mà chủ yếu còn nằm ở chuyện bất đối xứng, không minh bạch về thông tin. Doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhưng thông tin về dự án mà vì đó họ huy động vốn qua phát hành trái phiếu thường là rất không rõ ràng, không được công bố đầy đủ, thường chỉ chứa đựng những điều tốt đẹp, sáng lạn và không ít trường hợp là thông tin không trung thực, mang tính lừa gạt. Nên cũng sẽ không có gì lạ nếu thấy nhiều dự án cùng loại trên thị trường thậm chí còn không có được tỷ suất lợi nhuận cao như lợi suất trái phiếu mà doanh nghiệp phát hành hứa hẹn chi trả. Nhà đầu tư dù có muốn nhưng thực tế cũng sẽ rất khó tiếp cận doanh nghiệp phát hành để tìm hiểu, đánh giá và phân tích tính hấp dẫn và an toàn của trái phiếu như cách mà ngân hàng đánh giá người vay tiềm năng.        
Bởi vậy, để tránh những xáo trộn, đổ vỡ xảy ra trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp thì việc trước tiên cần làm là buộc doanh nghiệp minh bạch hóa thông tin, và thông tin bạch hóa cũng như bản thân doanh nghiệp cần được kiểm toán bởi cơ quan kiểm toán hoặc công ty kiểm toán chuyên nghiệp, uy tín. Doanh nghiệp và trái phiếu do doanh nghiệp phát hành cũng cần được xếp hạng tín nhiệm bởi các công ty xếp hạng chuyên nghiệp, độc lập.
Do những cơ quan/công ty kiểm toán, xếp hạng tín nhiệm có quyền và nghiệp vụ tiếp cận và phân tích toàn diện tình hình sức khỏe doanh nghiệp phát hành trái phiếu nên nếu họ thực hiện nghiêm túc chức trách của mình thì sẽ giúp loại ra ngay được những doanh nghiệp gian dối, phát hành trái phiếu với mục đích lừa đảo, hoặc những trái phiếu có chất lượng thấp, của những doanh nghiệp thuộc loại “phát hành hay là chết”!
Dẫu vậy, với tình trạng thiếu hụt các công ty và đội ngũ nhân lực kiểm toán, đánh giá xếp hạng tín nhiệm có chất lượng cao ở Việt Nam, chưa kể vẫn còn trường hợp kết quả kiểm toán, xếp hạng tín nhiệm bị bóp méo bởi động cơ vụ lợi như đã từng xảy ra, phải thừa nhận và chấp nhận một khoảng tối nhất định trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong một thời gian tương đối nữa cho đến khi các nguồn lực và chế tài hoàn bị hơn. Để rút ngắn khoảng trống về thời gian này thì vai trò giám sát thực thi và hỗ trợ về cơ chế của các cơ quan chức năng là hết sức quan trọng. Nên vẫn có thể nói không quá, không thừa rằng thành công của thị trường trái phiếu doanh nghiệp phụ thuộc hoàn toàn vào năng lực giám sát và tạo dựng thị trường của Chính phủ.
Bên cạnh giải pháp mang tính ngăn ngừa trên là giải pháp giảm thiểu rủi ro hệ thống. Theo đó, cơ quan chức năng cần cô lập việc lan truyền các rủi ro nảy sinh từ sự lao dốc của một trái phiếu doanh nghiệp để hạn chế hậu quả lan rộng ra nền kinh tế. Việc cho phép bán các sản phẩm đầu tư phái sinh được “chế tạo” từ trái phiếu doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao, hoặc việc dùng trái phiếu doanh nghiệp này làm tài sản thế chấp để mua trái phiếu doanh nghiệp khác... là những việc cần được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và triệt để. Đáng tiếc là dù trên thị trường đã xuất hiện những sản phẩm và “nghiệp vụ” này nhưng dường như cơ quan chức năng vẫn chưa có động thái xử lý thích ứng nào.  

Wednesday 17 July 2019

Nhận diện những nhân tố cản trở thị trường trái phiếu doanh nghiệp (Bài đăng trên TBKTSG, 17/7/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/291285/nhan-dien-nhung-nhan-to-can-tro-thi-truong-trai-phieu-doanh-nghiep-.html

Vấn đề phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp dài hạn gần đây thường xuyên được bàn thảo trong giới làm chính sách và giới chuyên gia ở Việt Nam như là một giải pháp cấp thiết để hỗ trợ nhu cầu vốn, đặc biệt là vốn dài hạn, cho doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh tín dụng ngân hàng ngày càng có xu hướng bị thắt lại.
Vị thế của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp lành mạnh sẽ có vai trò như một nhân tố ổn định, đặc biệt trong những giai đoạn có sự căng thẳng về tài chính, vốn thường dẫn đến đóng băng tín dụng ngân hàng. Sự phát triển một thị trường trái phiếu doanh nghiệp có tính thanh khoản cao và có chiều sâu sẽ giảm sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào vốn vay ngân hàng và dẫn đến sự đa dạng hóa lớn hơn các nguồn vốn huy động cho nhiều loại hình tài sản khác nhau.
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn giúp giảm rủi ro bất tương xứng về loại tiền và kỳ hạn của các nguồn vốn huy động và chi trả, đặc biệt là đối với các dự án có thời gian hoàn vốn dài.
Những lợi ích trên cho thấy nhu cầu cần phải có một thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển theo chiều sâu và bề rộng tại mỗi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Tuy vậy, từ nhận thức này đến thực tiễn là cả một chặng đường dài bởi việc xây dựng thị trường trái phiếu doanh nghiệp là một quá trình có thể rất tốn thời gian và đầy thách thức.
Nhận dạng những nhân tố cản trở và giải pháp
Hoạch định chính sách chưa được đặt đúng tầm, thực hiện đúng cách
Dù tầm quan trọng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã được nhìn nhận đầy đủ hơn ở Việt Nam gần đây nhưng việc phát triển thị trường này vẫn chưa phải là ưu tiên ở tầm quốc gia với một chiến lược phát triển khả thi và đúng đắn.
Bởi vậy, Chính phủ cần phải (thông qua một cơ quan chuyên trách/tổ công tác) nhanh chóng xây dựng và đề ra định hướng chiến lược dài hạn trong chương trình nghị sự phát triển thị trường với những bước đi và đầu công việc cụ thể, trong đó có những giải pháp xử lý các tồn tại nêu ở dưới đây, để đảm bảo sự phát triển trật tự và bền vững của thị trường này.
Vẫn lúng túng với những vấn đề sơ khai
Để đi xa hơn, nhanh hơn, cần giải quyết ngay những vấn đề tồn tại cơ bản như phương pháp phát hành (trên thị trường) sơ cấp, vẫn phải tốn nhiều thời gian để phê duyệt và đăng ký phát hành trái phiếu, thiếu nhất quán về tài liệu, giấy tờ thủ tục liên quan phát hành, cũng như thiếu một đường cong lãi suất chuẩn, hợp lý của Chính phủ và chưa đặt ra được lịch phát hành/đấu giá trái phiếu định trước...
Yếu kém về cơ sở hạ tầng thị trường và sự hạn hẹp cơ sở nhà đầu tư
Đây cũng là một trở ngại lớn khác đối với sự phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam. Để hỗ trợ phát triển thị trường trái phiếu sơ cấp thì cần nhanh chóng củng cố tính hiệu quả của việc mua bán trái phiếu, phát triển một hệ thống tạo dựng thị trường, thiết lập một chỉ số trái phiếu doanh nghiệp, và tạo dựng tổ chức là bên thứ ba chuyên bảo lãnh phát hành.
Cơ sở nhà đầu tư hạn hẹp có thể khắc phục ngay bằng cách loại bỏ các rào cản hạn chế sự tham gia của nhà đầu tư vào thị trường trái phiếu doanh nghiệp, cũng như khuyến khích nhà đầu tư tham gia vào thị trường bán lẻ.
Nghèo nàn về công cụ
Yếu tố này làm giảm tính hấp dẫn của trái phiếu doanh nghiệp với nhà đầu tư và nhà phát hành vốn đa dạng về nhu cầu; hạn chế thanh khoản trên thị trường, dẫn đến cản trở sự phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp theo cả bề rộng lẫn chiều sâu. Do vậy, cơ quan chức năng cần phát triển thêm nữa các công cụ quản lý rủi ro, phòng chống rủi ro (hedging), hợp đồng mua lại và hợp đồng mua lại đảo ngược (repo và reverse repo), phái sinh lãi suất (interest rate derivative), hoán vị rủi ro tín dụng (CDS) và thị trường phái sinh, chứng khoán hóa...
Yếu kém trong bảo vệ nhà đầu tư
Sự an toàn của nhà đầu tư vẫn còn bị xem nhẹ, bỏ ngỏ. Hiện có thực tế là nhà đầu tư, nhất là những người không chuyên, rất dễ bị lạc/dụ vào “ma trận” trái phiếu doanh nghiệp với lẫn lộn thông tin thật - giả, mập mờ. Chính phủ cần xác định rõ muốn phát triển thị trường trái phiếu bền vững thì cần phải xây dựng một khuôn khổ pháp luật có tính chế tài mạnh, cũng như tăng cường thanh tra, giám sát tuân thủ để bảo vệ nhà đầu tư và buộc nhà phát hành phải minh bạch hóa đầy đủ thông tin theo yêu cầu trong thời hạn quy định.
Các quy chế cũng cần được xây dựng và thực thi để tăng cường sự minh bạch về giá và mua bán trái phiếu, đánh giá chất lượng xếp hạng tín dụng; quy chế về tái cơ cấu và phá sản cần được ban hành đầy đủ và hoàn thiện.
Bất bình đẳng về thuế
Khuôn khổ thuế cần được rà soát và xem xét lại để cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp hoạt động bình đẳng với thị trường trái phiếu chính phủ cũng như thị trường tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại.
Thuế đánh lên phát hành, nắm giữ, chuyển nhượng trái phiếu doanh nghiệp dưới các dạng thức có thể gồm thuế giao dịch, thuế trước bạ, thuế thu nhập, thuế đánh trên khoản lãi đầu tư..., nếu gộp lại mà trở nên quá nhiều so với các kênh huy động vốn khác thì sẽ khuyến khích doanh nghiệp chuyển sang huy động vốn trên thị trường chứng khoán hoặc vay vốn ngân hàng.
Còn nhà đầu tư thì có thể chọn các kênh đầu tư khác có mức thuế nhẹ hơn. Thuế cao cũng sẽ cản trở các tổ chức tài chính thực hiện tư vấn và cơ cấu hóa trái phiếu cho khách hàng doanh nghiệp của họ bởi sẽ ảnh hưởng đến chi phí phát hành và cơ cấu trái phiếu.   


Saturday 6 July 2019

Vì sao Google ủng hộ thỏa thuận thuế quốc tế? (Bài đăng trên TBKTSG, 6/7/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/290998/vi-sao-google-ung-ho-thoa-thuan-thue-quoc-te-.html

(TBKTSG) - Các chính phủ cần phải phối hợp với nhau để các công ty trả thuế cho những nơi mà sản phẩm và dịch vụ của chúng được tiêu thụ theo một cách phù hợp, “có đi có lại”, và được chấp nhận bởi các bên.
Mấy ngày trước, trong một bài viết trên blog của mình có tiêu đề “Đã đến lúc có một thỏa thuận thuế quốc tế mới”(1), Karan Bhatia, một cán bộ ở bộ phận quan hệ công chúng và chính phủ của Google cho biết “chúng tôi” (Google?) ủng hộ thỏa thuận gần đây của các bộ trưởng tài chính về sự cần thiết phải có những cải cách lớn nhất trong hệ thống thuế quốc tế trong một thập kỷ nay, hướng đến một khuôn khổ quốc tế toàn diện mới để đánh thuế lên các công ty đa quốc gia.
Google lên tiếng về việc nộp thuế của mình
Bài viết tiếp tục rằng: “...chúng tôi muốn có một môi trường thuế mà mọi người đều thấy là hợp lý và đúng đắn”. Đồng thời, bài viết nhấn mạnh, dù có một số quan ngại về nơi mà Google nộp thuế, mức thuế doanh nghiệp tổng hợp trên toàn cầu Google đang phải trả là 23% trong vòng 10 năm qua, phù hợp với mức thuế trung bình theo quy định của các nước phát triển khối OECD là 23,7%. Phần lớn số thuế này được nộp tại Mỹ - nơi sản sinh và phát triển phần lớn sản phẩm và dịch vụ của Google. Phần thuế còn lại được nộp tại khoảng 50 nước trên thế giới - những nơi Google có văn phòng trợ giúp việc bán dịch vụ.
Theo bài viết, việc Google trả thuế như trên không phải là cá biệt, mà phù hợp với thông lệ có từ lâu nay, cũng tương tự như việc các công ty đa quốc gia của Pháp, Đức, Nhật Bản trả nhiều thuế hơn ở bản quốc, chứ không phải ở những nơi mà sản phẩm và dịch vụ của họ được tiêu thụ. Vì vậy, trước động thái nhiều nước thành viên OECD đang đề xuất các quy định thuế hiện đại, theo đó các công ty đa quốc gia sẽ phải trả nhiều thuế hơn tại những nước mà sản phẩm và dịch vụ của họ được tiêu thụ, bài viết một mặt đồng ý đã đến lúc cần có một hệ thống phân bổ thuế doanh nghiệp mới nhưng đồng thời cũng cảnh báo tình trạng một số nước đang đơn phương hành động, áp đặt thuế mới lên các công ty đa quốc gia. Nếu không có một thỏa thuận đa phương và toàn diện, các nước chắc chắn sẽ đơn phương áp đặt thuế lên các công ty đa quốc gia ở nhiều lĩnh vực.
Bài viết nhận định rằng hành động đánh thuế đơn phương trên sẽ tạo ra một “cuộc đua xuống đáy” vì sẽ tạo ra các rào cản thương mại, cản trở đầu tư xuyên biên giới, và làm chậm tăng trưởng kinh tế. Mức thuế riêng biệt áp lên một số ít công ty công nghệ Mỹ chẳng qua chỉ là việc cố giành lấy một phần của số thuế lẽ ra phải nộp tại Mỹ, nên sẽ làm gia tăng căng thẳng thương mại. Vì vậy, các chính phủ cần phải phối hợp với nhau để các công ty trả thuế cho những nơi mà sản phẩm và dịch vụ của chúng được tiêu thụ theo một cách phù hợp, “có đi có lại”, và được chấp nhận bởi các bên.
Google muốn gì?
Qua bài viết trên, trước hết có thể thấy là Google đang muốn thanh minh cho cáo buộc tránh thuế của nhiều nước dành cho Google như vẫn thường được nhắc đến trên báo chí. Bằng việc nêu ra mức thuế doanh nghiệp thực tế phải trả là 23%, xấp xỉ mức trung bình của OECD, việc Google hoặc một công ty công nghệ tương tự như vậy dù có đặt trụ sở ở thiên đường thuế nào đi chăng nữa thì dường như mục đích chính của việc này không phải là tránh thuế vì nó không mang lại nhiều tác dụng.    
Điều tiếp theo, có thể hơi khó hiểu với nhiều người, là dù Google đang phải trả thuế đầy đủ, không kém gì các công ty thông thường khác, nhưng tại sao Google lại ủng hộ một thỏa thuận thuế mới mang tính toàn cầu? Hãy để ý đến lời lẽ trong bài viết trên, có những từ như “công bằng”, “hợp lý”, “đúng đắn”, “toàn diện”, “đa phương”, “đơn phương”... Có lẽ Google đang muốn mọi người có cái nhìn đúng hơn dành cho họ, với tư cách là một nạn nhân bị kẹt giữa sự tranh chấp (về thuế) của các quốc gia, chứ không phải là một tội đồ (trốn thuế, tránh thuế).
Cụ thể hơn, nếu các quốc gia, kể cả các quốc gia đang phát triển, không phối hợp với nhau để cùng xây dựng một khuôn khổ đánh thuế quốc tế dành cho các công ty đa quốc gia thì Google sẽ rơi vào cảnh “một cổ nhiều tròng” - không những vẫn phải trả thuế đầy đủ ở Mỹ mà còn phải trả thuế (cao) ở các nước khác như Pháp, Anh, Úc, Ấn Độ, Indonesia (và Việt Nam)..., vốn đã và đang có những đề xuất áp thuế lên các công ty công nghệ như Google. Điều này dẫn đến kết cục là hoặc Google sẽ bị mất cơ hội kinh doanh ở những nước mà Google không chấp nhận nộp thuế, hoặc phải trả thuế cao áp đặt theo ý muốn của các nước này (ngoài Mỹ).
Vì vậy, trong góc nhìn của các công ty công nghệ đa quốc như Google, một khuôn khổ thuế mang tính quốc tế, được đồng thuận bởi (hầu hết) các quốc gia trên thế giới, gồm (có thể) những nguyên tắc như tránh đánh thuế hai lần, đánh thuế thế nào và bao nhiêu lên doanh thu nếu công ty đa quốc gia không có văn phòng đại diện hay chi nhánh tại nước sở tại, hoặc thỏa thuận phân chia thuế cho các nước số thuế thu được từ công ty đa quốc gia trên phạm vi toàn cầu... là điều cấp thiết cần phải có để tránh gây thiệt hại lớn cho Google khi các quốc gia trên thế giới đều đua nhau đánh thuế họ.
Các nước hãy đi cùng nhau và... cùng Mỹ...
Cũng cần lưu ý thêm là dù bài viết đã rất “ngoại giao” khi nói “hy vọng” rằng các nước sẽ đạt được sự đồng thuận xung quanh khuôn khổ thuế mới công bằng, nhưng việc bài viết cảnh báo “cuộc đua xuống đáy” không phải là ngẫu nhiên hay vì Google tự thấy mình có sứ mệnh là sứ giả “gìn giữ hòa bình” trên thế giới.
Việc này cần được đặt trong bối cảnh Mỹ đã cương quyết chống lại việc các nước châu Âu tìm cách đánh thuế riêng lên bốn công ty công nghệ gồm Google, Apple, Facebook và Amazon (gọi tắt là GAFA). Sự phản đối này được thể hiện rõ trong nhiều tuyên bố của Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin cũng như sự cáo buộc của một nhóm nghị sĩ đảng Cộng hòa rằng hành động đánh thuế này của châu Âu là nhằm mục đích ngăn cản Mỹ tiếp cận thị trường châu Âu và châm ngòi một cuộc chiến thương mại (công nghệ) số(2).
Như vậy, nếu các nước trên thế giới không muốn phối hợp với nhau và nhất là với Mỹ để đi đến đồng thuận về đánh thuế riêng lên GAFA, hoặc là quá sốt ruột, không tin tưởng rằng một đồng thuận như thế có thể sớm đạt được, mà đơn phương áp thuế lên GAFA thì họ chắc chắn sẽ phải đối mặt với sự phản đối mạnh mẽ của Mỹ. Nếu các bên không có sự xuống thang thì viễn cảnh chiến tranh thương mại mà bài viết trên Google nhắc đến là khó tránh khỏi, mà bên yếu thế hơn, rất tiếc, thường không phải là Mỹ.
Nói cách khác, Google hiểu rõ được sự hậu thuẫn của Chính phủ Mỹ và dường như muốn ngầm nhắc nhở các nước khác đừng “vuốt râu hùm”, nếu muốn đánh thuế lên Google thì hãy hợp tác hơn là đối đầu với chính phủ Mỹ (và như thế cũng sẽ “công bằng”, “đúng đắn” hơn cho Google).
Phân tích trên có thể chỉ là một sự suy diễn quá mức nhưng ít nhất thì chuyện Chính phủ Mỹ đứng sau và bảo vệ GAFA cũng như bảo vệ “nồi cơm” của mình là một thực tế không thể khác được. Hàm ý của điều này là nếu Việt Nam muốn đánh thuế Google, Facebook hay các doanh nghiệp dựa trên nền tảng công nghệ số khác thì cần tránh xu hướng đơn phương áp đặt. Thay vào đó, cần có sự tham khảo, phối hợp và đồng thuận với các nước liên quan khác, đặc biệt là những nước bản quốc như Mỹ.
(1) https://www.blog.google/outreach-initiatives/public-policy/its-time-new-international-tax-deal/
(2) https://www.bakerinstitute.org/media/files/files/2a38fa65/bi-report-010919-cpf-digitaltax.pdf



Wednesday 3 July 2019

“Tiền” Facebook khác Bitcoin... (Bài đăng trên TBKTSG, 3/7/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/290595/tien-facebook-khac-bitcoin.html

Facebook công bố mô tả đầu tiên về đồng tiền mật mã (cryptocurrency) của mình, gọi là Libra. Tuy vậy, không như nhiều người nghĩ, thực ra Libra rất khác, thậm chí là ngược lại với những đồng tiền mật mã khác, điển hình là Bitcoin. 

Khác biệt trước tiên là mục đích sử dụng. Libra là một phương tiện trao đổi, giúp người sử dụng chuyển tiền cho nhau và thực hiện các giao dịch. Trong khi đó, Bitcoin, dù được tạo ra với tham vọng tạo nên một nền tảng (platform) để hỗ trợ giao dịch, lại thường được coi là một phương tiện đầu tư và lưu trữ giá trị. Chẳng thế mà nhiều người vẫn gọi Bitcoin là “vàng số”, còn Libra được gọi là tiền mật mã, có bản chất như tiền pháp định (fiat money).

Khác biệt lớn thứ hai là về phạm vi được chấp nhận. Không như sự hiểu lầm phổ biến, dù được sử dụng thanh toán các giao dịch trên Facebook nhưng Libra không thuộc về Facebook mà thuộc về Libra Association (Hiệp hội Libra) gồm nhiều “tay to” như Visa, Mastercard, Paypal, Uber, Booking, Ebay... Hiệp hội này đã phát hành sách trắng mô tả kế hoạch phát hành Libra vào nửa đầu năm 2020.

Nhờ vậy, Libra có thể nhanh chóng được thị trường chấp nhận. Trong khi đó, sau một thời gian tương đối dài ra mắt, Bitcoin chỉ là một “thực nghiệm”, vẫn đang trong giai đoạn phát triển. Thêm nữa, khả năng phí giao dịch thấp của Libra sẽ kích thích người sử dụng dùng nó để chuyển tiền. Ngược lại, Bitcoin thì đắt đỏ hơn và lại chậm hơn trong giao dịch nên ít thu hút được người sử dụng.

Liên quan đến vấn đề ở trên, người phát triển ra tiền mật mã (Bitcoin) và cộng đồng tiền mật mã là những người quyết định điều gì sẽ xảy ra với tiền mật mã. Nếu ai đó không thích một điều gì đó thì người đó có thể “hardfork” mã (tạo ra một phiên bản blockchain hoàn toàn mới, tách biệt khỏi blockchain trước đó; các node (nút) chạy các phiên bản trước đó sẽ không còn được chấp nhận bởi phiên bản mới nữa), và tạo ra một đồng tiền riêng của mình. Với chủ nhân là Hiệp hội Libra, mô hình của Libra khác biệt hoàn toàn. Tổ chức và cá nhân nào mua node với giá 10 triệu đô la Mỹ/node sẽ là người phải quyết định tương lai của Libra.  



Khác biệt thứ ba là về sự biến động. Chính vì sự biến động mạnh mà những người có máu mạo hiểm muốn mua bán Bitcoin để kiếm chênh lệch. Sở dĩ giá của Bitcoin biến động mạnh là bởi nó không bị sở hữu hay quản lý bởi bất cứ một tổ chức trung ương nào và tồn tại trong một mạng lưới phi tập trung.

Ngược lại, giá của Libra thì được ổn định bằng các tài sản thực như rổ tiền tệ, gồm các đồng tiền ở những nước/khu vực có lạm phát thấp như đô la Mỹ hay euro, và các loại chứng khoán nợ (trái phiếu chính phủ).

Lý do Libra cần được ổn định giá trị là xuất phát từ ý định biến nó thành một giải pháp thay thế hệ thống tiền tệ toàn cầu, dành cho những người có tiền tiết kiệm nhưng không tin tưởng vào một đồng tiền cụ thể nào đó như đô la Mỹ, euro... và cũng không muốn gửi tiền của mình vào những nơi bị kiểm soát bởi các ngân hàng trung ương, hay chịu rủi ro lạm phát từ việc in tiền vô tội vạ.

Khác biệt thứ tư là về tính nặc danh. Điều mà nhiều người thích về Bitcoin, và, ngược lại, nhiều chính phủ “căm ghét” nó chính là tính nặc danh của các giao dịch sử dụng Bitcoin, cũng như khả năng chuyển tiền giữa các cá nhân và giữa các chính phủ hoàn toàn bí mật, không để lại dấu vết để có thể bị truy tìm.

Ngược lại, theo sách trắng thì Libra được tạo ra để tuân thủ pháp luật, không cho phép rửa tiền, trốn thuế, hoặc bất cứ một hành vi đen tối nào khác đòi hỏi phải có giao dịch nặc danh, che giấu chủ sở hữu. Đặc tính này có được là nhờ Libra blockchain là một cấu trúc dữ liệu đơn ghi lại lịch sử các giao dịch, đơn giản hóa công việc của các ứng dụng (applications) tiếp cận blockchain, cho phép các ứng dụng đọc dữ liệu tại bất cứ thời điểm nào và xác nhận tính toàn vẹn của dữ liệu nhờ sử dụng một khung xác thực thống nhất (unified verification framework).

Sau những lùm xùm quanh chuyện lạm dụng dữ liệu và xâm phạm sự riêng tư của Facebook gần đây, theo sách trắng, người sử dụng Libra được đảm bảo những chuyện này sẽ không xảy ra với họ. Sẽ có một tên hiệu cho ví điện tử của mỗi người sử dụng để nắm giữ Libra. Do tên hiệu của ví điện tử sẽ không được gắn với tên thật của người sử dụng nên dù họ có sử dụng thường xuyên ví để mua bán thì sự riêng tư cũng sẽ không bị xâm phạm.

Đặc tính này không cản trở sự điều tra của cơ quan chức năng về dấu vết lưu thông của mỗi Libra, đã đi từ và đến những ví điện tử nào của những ai, có thể là tội phạm, nhà đầu tư cá nhân vô tội, người mua hàng trực tuyến, nhà bất đồng chính kiến hoặc đối thủ chính trị.

Khác biệt thứ năm là việc tạo ra tiền. Libra không được “đào” như với Bitcoin, mà được “đúc” trải qua một quá trình hoàn toàn khác biệt. Một Libra được tạo ra, hay được “đúc” khi một đơn vị tiền quốc gia thông thường được tiêu để mua Libra. Bản tệ mua Libra (trừ đi phí giao dịch) sẽ được thu bởi Hiệp hội Libra và dùng để mua một phần trong tập hợp các khoản tiền gửi ngân hàng toàn cầu cùng trái phiếu chính phủ cấu thành nên cái gọi là Quỹ dự trữ Libra.

Như vậy, về nguyên tắc, các giá trị sẽ được đổi ngang (một lượng Libra đổi lấy một lượng đô la Mỹ hay bản tệ). Nếu Hiệp hội Libra thu về 1 tỉ đô la Mỹ giá trị Libra thì họ sẽ “đúc” Libra, dùng tiền đó để mua 1 tỉ đô la Mỹ giá trị tiền gửi ngân hàng và trái phiếu chính phủ.

Khi hệ thống đã ổn định thì có thể kỳ vọng lượng Libra bán ra, mua vào là cân bằng nhau. Nhưng nếu vào một thời điểm nào đó người ta bán Libra để lấy bản tệ nhiều hơn là số Libra được mua thì Hiệp hội Libra sẽ “đốt” Libra, và bán ra dự trữ để lấy tiền mặt bù đắp phần thiếu hụt. Cơ chế này là ngược 180 độ so với Bitcoin, và sự khác biệt hoàn toàn là theo chủ đích.

Cần lưu ý rằng Hiệp hội Libra không phải là một tổ chức từ thiện, phi lợi nhuận. Nguồn thu của nó chính là tiền lãi trả cho tài sản trong quỹ dự trữ Libra, dùng để trang trải chi phí hệ thống, đảm bảo có thu phí nhưng ở mức độ thấp, trả cổ tức cho nhà đầu tư đã bỏ vốn ban đầu để xây dựng hệ sinh thái, và khuyến khích sự tăng trưởng và mở rộng phạm vi chấp nhận.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).