Wednesday 28 September 2022

'Nhiễu' chính sách (Bài đăng trên KTSG, 26/9/2022)

https://thesaigontimes.vn/nhieu-chinh-sach/

Kinh tế Việt Nam đã và đang trải qua những thăng trầm lớn trong mấy năm qua và hướng đến một trạng thái bình thường mới. Gánh trên vai nhiều trọng trách trong tâm thế chịu sức ép từ nhiều phía phải hành động theo các hướng thậm chí trái ngược, mâu thuẫn với nhau, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đến thời điểm này đã tạo dựng một thế cân bằng vĩ mô mới dựa trên sự thỏa hiệp ở mỗi nơi, mỗi lĩnh vực một ít.

Về lạm phát, tuy NHNN đã phần nào ngăn chặn được tình trạng lạm phát tăng vọt lên như ở nhiều nước trên thế giới nhưng lạm phát ở Việt Nam cũng không thể gọi là thấp được đến thời điểm hiện tại, và vẫn phải đối mặt với rủi ro lạm phát cao hơn trong những tháng cuối năm và sang đến năm sau.

Về lãi suất, chính sách tiền tệ “thận trọng, linh hoạt” của NHNN tuy đã hạn chế được đà tăng lãi suất mạnh như ở nhiều nước nhưng thực tế thì mặt bằng lãi suất đã tăng lên trở lại hoặc hơn trước thời điểm đại dịch. Các lãi suất điều hành chưa tăng nhưng điều này đơn giản là do NHNN chưa muốn công bố chính thức, trong khi trên thị trường liên ngân hàng, thị trường mở, thị trường tái chiết khấu tín phiếu, lãi suất mà NHNN áp dụng với các ngân hàng thương mại trong các giao dịch liên quan đã tăng vọt.

Cũng tương tự vậy là về tỷ giá, tuy đã không tăng nhanh và mạnh như với các bản tệ khác đến hàng chục % nhưng tỷ giá USD/VND cũng đã tăng tới 3,9% so với cuối năm trước (số liệu từ xe.com) và không thể gọi là “ổn định” được. Tất nhiên, sự mất giá “có chừng mực” này của tiền đồng đã phải đi kèm với cái giá là lãi suất tiền đồng đã tăng lên như nói ở trên, còn quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia thì đã hao hụt mạnh hàng chục tỷ đô la trong các đợt can thiệp vào thị trường ngoại hối vừa qua của NHNN.

Nhìn chung, một cách công bằng và khách quan, chính sách và phản ứng của NHNN cho đến nay tuy không phải tối ưu nhưng là điều có thể chấp nhận được, đặc biệt khi chúng ta đặt mình vào vị trí khá “tế nhị” của NHNN với nhiều sức ép tứ phía. Trong Hội nghị về giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng hôm 12/9, bất chấp vẫn có những gam mầu... không sáng như nêu trên, hoạt động điều hành của NHNN vẫn được đánh giá cao bởi Thủ tướng Chính phủ và nhiều chuyên gia trong và ngoài nước với những từ như “điều hành rất chắc tay”, “nghệ thuật điều hành”, “đang đi đúng hướng”...(1).

Tuy nhiên, cũng trong hội nghị trên có một số ý kiến và nhận định của một vài chuyên gia kỳ cựu không chỉ khác biệt mà còn, đáng nói hơn, tạo ra không ít “nhiễu” về đường hướng chính sách đến mức người nghe không biết phải hiểu và làm thế nào cho đúng.

Có vị chuyên gia lập luận rằng chắc chắn ngày 21/9 này Mỹ sẽ tiếp tục tăng lãi suất mà mục đích, suy cho cùng, là phục vụ cho việc tăng tỷ giá. Vì thế vị này cho rằng Việt Nam cần tiếp tục kiên định sự ổn định của tỷ giá, và nhấn mạnh rằng “Nếu không cho đồng Việt Nam tăng giá thì thôi chứ không để cho đồng Việt Nam giảm giá”.

Cái sai của vị chuyên gia này là mục đích tăng lãi suất của Mỹ. Nó hiển nhiên chỉ là để kiềm chế lạm phát tăng vọt ở nước này, chứ không phải là để tăng tỷ giá, bởi hầu như các đời Tổng thống Mỹ đều hiểu cái giá phải trả khi đô la Mỹ lên giá và thường áp đặt nhiều biện pháp trừng phạt các quốc gia đối tác thương mại lớn có đồng bản tệ bị mất giá một cách bất thường so với đô la Mỹ.

Cái sai nữa là cho rằng tiền đồng vẫn đang ổn định và cần tiếp tục kiên định sự ổn định này. Thực tế thì, như đã nói, tiền đồng tuy mất giá không mạnh như các bản tệ khác nhưng cũng đã yếu đi tới 3,9%, và ở mức độ này thì không thể nào gọi đó là sự ổn định được.

Đáng nói hơn cả là cái ý “không để tiền đồng tăng giá thì thôi chứ không để mất giá”. Chắc không mấy người hiểu được lý do tại sao phải để tiền đồng tăng giá mới là tốt, tối ưu, trừ khi người đó cũng quan niệm, một cách sai lầm, rằng bản tệ mạnh lên (tăng giá so với đô la Mỹ) mới là thể hiện sức mạnh kinh tế, tính cạnh tranh của quốc gia.

Tương tự, nếu coi việc để tiền đồng mất giá là một tai họa, một thất bại chính sách thì chẳng những vị chuyên gia này đang phủ nhận thành quả của NHNN về điều hành tỷ giá như được Thủ tướng và các chuyên gia tán dương, mà còn chính là cổ xúy cho việc “chơi tất tay” để bảo vệ tỷ giá đến đồng dự trữ ngoại tệ cuối cùng và/hoặc lãi suất cao đến mức thắt cổ, nếu cần, trong bối cảnh áp lực tỷ giá đang ngày càng tăng lên như hiện nay. Nếu không làm vậy thì có cách nào khác để kiên quyết bảo vệ tỷ giá, thưa chuyên gia?

Có vị chuyên gia khác trong hội nghị thì cho rằng "Bơm tiền hay không bơm tiền ra đều phải căn cứ vào nợ xấu. Không bơm tiền chưa chắc đã giảm nợ xấu. Nếu chúng ta bơm tiền ra đúng đối tượng, cho những doanh nghiệp tốt, dự án tốt thì vẫn xử lý giúp cho ngành ngân hàng trong điều kiện hiện nay".

Có thể nói đây cũng là một ý kiến rất... gây nhiễu, không chỉ vì nó đi ngược lại những hiểu biết thông thường về kinh tế học (về chuyện bơm tiền phải căn cứ vào nợ xấu), sai lầm về khái niệm (chỉ có ngân hàng trung ương mới có chức năng bơm tiền, chứ không phải là chính phủ, hay đầu tư công), mà còn làm cho người nghe bối rối với câu hỏi, rốt cục thì cần phải làm gì, thế nào mới là đúng?

Có lẽ rồi đây các hội nghị cần đi vào thực chất và hiệu quả bằng cách thanh lọc để hạn chế không chỉ các ý kiến chung chung, nói đâu cũng đúng nhưng không tạo ra chút giá trị thặng dư gì, và đặc biệt là những loại ý kiến vừa sai vừa làm rối thêm cho nhà điều hành.

----

(1)    https://cafef.vn/kien-dinh-dieu-hanh-chinh-sach-tien-te-than-trong-linh-hoat-20220913153513831.chn

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).