Monday 13 February 2023

Bàn về lời khuyên của các chuyên gia (4 – kỳ cuối) (Lại Vinfast!)

Phần cuối của bài phỏng vấn, ông Dũng trả lời câu hỏi về vai trò mang tính quyết định thành bại của các tập đoàn lớn, với cái tên cụ thể được gọi ra là Vinfast, trong công cuộc hóa rồng của Việt Nam để dẫn dắt đến nhu cầu cấp thiết phải hỗ trợ, tạo điều kiện cho Vinfast. Theo nội dung câu hỏi thì thực ra không phải người phỏng vấn tự chọn ra Vinfast mà chính ông Dũng đề cập đến ở đâu đó trước đây và được người phỏng vấn nhắc lại.

Tớ phải đặc biệt chú ý điều này bởi đã chứng kiến và rất e sợ các chuyên gia tự nhiên đứng ra kêu gọi, bênh vực nhà nước hỗ trợ, bảo hộ cho một doanh nghiệp, một tập đoàn nào đó như hiện nay là Vietnam Airlines và các dự án đầu tư yếu kém thua lỗ triền miên của Bộ Công thương. Tớ cũng đôi lần phang các đồng chí chuyên gia này, và nay buộc phải lên tiếng với ông Dũng. Và vì thế mới có cái tiêu đề gồm mấy chữ “các chuyên gia” trong chuỗi bài này.

Mở đầu câu trả lời, ông Dũng khẳng định: “Thực ra, nếu muốn VinFast thành công, có lẽ phải có sự hỗ trợ của nhà nước. So với những ‘gã khổng lồ’ đã tồn tại hàng trăm năm nay, thậm chí là khấu hao hết rồi, thì một công ty mà công nghệ lõi cũng phải đầu tư, tốn cả một núi tiền, thì cạnh tranh như thế nào? Một cách dễ hiểu là như thế này: bắt một đứa trẻ sơ sinh cạnh tranh với một người đàn ông lực lưỡng, thì đó không phải là công bằng, mà là một sự bất công. Hay làm sao một võ sĩ hạng nhẹ có thể cạnh tranh công bằng với một võ sĩ hạng nặng được?”.

Câu khẳng định trên của ông cũng đã chứa đựng lời đáp cho câu hỏi “thì cạnh tranh như thế nào?”. Xin mượn sự so sánh của ông về việc “bắt” một đứa trẻ cạnh tranh với một người lực lưỡng để hỏi ngược lại, dù giả sử nhà nước là bà mẹ nhân từ của đứa con và sẵn sàng hy sinh mọi thứ để giúp đứa trẻ cạnh tranh được với người lớn thì liệu cuộc cạnh tranh có thành công? Nếu khôn ngoan ra và biết cuộc cạnh tranh này là vô vọng thì lẽ ra bà mẹ nhà nước nhân từ này tuyệt đối không bao giờ nên “bắt” con mình cạnh tranh với người lớn để rồi dẫn đến những hy sinh vô ích.

Đó là chưa kể, Vinfast cùng lắm chỉ là đứa con nuôi, chứ chẳng phải ruột thịt máu mủ gì với bà mẹ nhà nước như, ví dụ, EVN với nhà nước. Nhà nước cũng chẳng nắm tẹo cổ phần nào, chẳng có cơ hội chi phối Vinfast như trong các doanh nghiệp có vốn nhà nước chi phối khác chẳng hạn như Vietnam Airlines. Bởi vậy, sự hy sinh hỗ trợ hết mình cho Vinfast xem ra vừa rất kỳ khôi, vừa rất vô nguyên tắc.

Không nhận thức được lỗ hổng trong lập luận trên của mình, ông Dũng dấn thêm một bước để kêu gọi hỗ trợ Vinfast: “Cái khó là hỗ trợ VinFast mà không dựa trên khuôn khổ thể chế của nhà nước kiến tạo phát triển, sẽ rất dễ bị cho thiên vị hoặc thân hữu. Rõ ràng xác định việc lựa chọn mô hình nhà nước kiến tạo phát triển là rất quan trọng ở đây. Nếu không, doanh nghiệp sẽ rất khó khăn. Đó là một nửa vấn đề.”

Hóa ra mục đích cuối cùng cho công cuộc vận động áp dụng mô hình nhà nước kiến tạo của ông Dũng có lẽ cũng chỉ là để hợp pháp hóa bàn tay can thiệp, o bế, hỗ trợ của nhà nước với những doanh nghiệp như Vinfast. Nếu đúng thế thì ông đã hiểu rất sai về nhà nước kiến tạo phát triển trong bối cảnh ngày nay. Như đã nói về Singapore ở bài đầu, nếu muốn học hỏi họ thì phải luôn khắc ghi trong đầu mấy chữ “khuyến khích cạnh tranh và đổi mới” và biết định hướng nền kinh tế phát triển theo những ngành có thế mạnh cạnh tranh một cách khôn ngoan.

Nếu đã theo đuổi 2 chữ “cạnh tranh” như Singapore thì hãy để đứa bé Vinfast tự đứng trên đôi chân mình cạnh tranh với các gã khổng lồ khác. Chết thì ráng chịu. Xin đừng lặp lại bài học Vinashin!

Nếu bao biện bằng cách lấy ví dụ về Trung Quốc đã hỗ trợ mạnh mẽ cho các doanh nghiệp như thế nào thì hãy cùng tớ thử hỏi Tiến sĩ ChatGPT về cách Trung Quốc hỗ trợ đích danh BYD, hãng xe điện TƯ NHÂN hàng đầu của Trung Quốc.

Câu trả lời là Trung Quốc có 4 biện pháp hỗ trợ BYD VÀ CÁC HÃNG XE ĐIỆN KHÁC. Các biện pháp này gồm trợ cấp sản xuất và tiêu thụ (để hạ giá bán...), xây dựng cơ sở hạ tầng (trạm sạc...), nghiên cứu và phát triển, và chính sách (miễn thuế...).

Hàm ý rõ ràng là Trung Quốc đã không chọn cụ thể một doanh nghiệp nào để hỗ trợ. Họ hỗ trợ là hỗ trợ chung cho ngành xe điện của Trung Quốc, ít nhiều cũng giống như cách làm của nhiều nước khác trên thế giới, không có gì là đặc biệt hay quá đáng, đáng bị chỉ trích. Bằng cách này, các đứa con đẻ và con nuôi, hiện tại và tương lai, vừa có cơ hội để lớn lên, vừa vẫn phải cạnh tranh với nhau để đứa nào lớn được thì sẽ lớn nhanh và mạnh khỏe.

Vấn đề là ở Việt Nam hiện hình như chỉ có mỗi Vinfast là hãng xe điện nội địa đúng nghĩa nên nếu hỗ trợ cho ngành xe điện nội địa thì lại thành hỗ trợ mỗi Vinfast. Không sao, chỉ cần Nhà nước tuyên bố các biện pháp hỗ trợ kiểu Trung Quốc cho ngành xe điện trong nước thì chắc chắn sẽ có thêm các doanh nghiệp mới khác, cả trong và ngoài nước, nhảy vào thị trường này ở Việt Nam.

Tuy nhiên, cũng nhân cơ hội học hỏi từ Singapore ở khía cạnh biết định hướng phát triển một cách khôn ngoan theo các ngành nghề có lợi thế thì chưa chắc ngành xe điện là một ngành có lợi thế, có tiền đồ phát triển ngoạn mục ở Việt Nam, như chính ông Dũng cũng thừa nhận khi nói về Vinfast. Nên trước khi xác định muốn hỗ trợ ngành xe điện nói chung hoặc một doanh nghiệp cụ thể như Vinfast nói riêng, thì phải làm rõ ngành này (các doanh nghiệp trong nước) có cơ hội phát triển hay lại... chết yểu như với tấm gương tày đình là ngành xe động cơ đốt trong nội địa dù đã được hưởng bao ưu đãi, hỗ trợ từ nhà nước trong mấy chục năm qua để đến nay vẫn chỉ có doanh nghiệp có hoạt động lắp ráp ô tô là chính?   

Cuối cùng, ông Dũng hoàn thiện câu chuyện về Vinfast với phát biểu: “Và một nửa còn lại, là sẽ tốt hơn cho doanh nghiệp, nếu nhiều người Việt có thể ủng hộ và chia sẻ sự thành công của họ. Không khéo, chúng ta dễ dàng chia ngọt, sẻ bùi trong chiến tranh, gian khó, nhưng khó khăn chia sẻ sự thành công vượt bậc của đồng hương. Cứ nghĩa mà xem, nếu không có các tập đoàn hùng mạnh, Việt Nam nhìn vào đâu để “hoá rồng”?”.

Có lẽ ông Dũng cần tìm hiểu tại sao người Việt lại “khó khăn chia sẻ sự thành công vượt bậc của đồng hương”. Như loạt bài về Vinfast của tớ cho thấy những thứ... không hay của nó, khó mà đòi hỏi nhiều người Việt lại tin tưởng, yêu mến và ủng hộ hết mình cho doanh nghiệp này.

Tóm lại, bài trả lời phỏng vấn rất dài này của ông Dũng có nhiều chi tiết rất bất cập, không đầy đủ và đúng đắn về mô hình nhà nước kiến tạo phát triển. Nhưng điều nguy hiểm nằm ở kiến nghị phải tăng cường sự can thiệp, tham gia trực tiếp của nhà nước vào hoạt động kinh tế theo mô hình kiểu cũ từng thịnh hành cả nửa thế kỷ trước đây ở Đông Á mà nay ít được áp dụng (theo nguyên mẫu), cũng như cái kiến nghị của ông Dũng về việc phải hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp như Vinfast nhân danh sự thịnh vượng của Việt Nam.  

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).