Saturday, 11 February 2023

Bàn về lời khuyên của các chuyên gia (2)

Bài trước đang nói đến yếu tố văn hóa mà dường như theo ông Dũng là có sự tương đồng giữa Việt Nam và Singapore, dù ông không trực tiếp chỉ ra cụ thể sự tương đồng này là như thế nào, ngoài nêu chung chung rằng Việt Nam và Singapore đều nằm ở Đông Nam Á nhưng nền tảng văn hóa lại gần với Đông Bắc Á.

Hỏi cụ thể với Tiến sĩ ChatGPT về sự tương đồng văn hóa giữa Singapore và các nước Đông Á thì được trả lời như sau (tóm tắt): Singapore có một nền văn hóa đa dạng và độc đáo, bị ảnh hưởng bởi lịch sử là thuộc địa của Anh, bởi vị trí nằm giữa Đông Nam Á và bởi dòng người nhập cư từ Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ và phương Tây.

Trong khi có một số tương đồng với các nước Đông Á như xã hộ có tôn ti trật tự (kẻ dưới nể sợ kẻ trên), chủ nghĩa tập thể, và chú trọng vào giáo dục, nền văn hóa của Singapore có những điểm khác biệt riêng, ví dụ đa ngôn ngữ, ẩm thực, đặc biệt coi trọng sạch sẽ và trật tự thể hiện qua các nơi công cộng xanh, sạch đẹp.

Hỏi tiếp về sự tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Singapore, thì ngoài những tương đồng trên còn có thêm coi trọng giá trị gia đình và tôn giáo đa dạng. 2 nước khác biệt lớn về lịch sử, ngôn ngữ và hệ thống chính trị.

Như vậy có thể thấy thực ra thì sự tương đồng và khác biệt này giữa Singapore và Việt Nam nói riêng và các nước Đông Á khác cũng na ná như khi so sánh các nước này với nhiều nước khác trên thế giới, chẳng nói lên được điều gì.

Nói cách khác, yếu tố văn hóa khá nhạt nhòa như là một trong các yếu tố quyết định một nước như Singapore hoặc Việt Nam có nên đi theo mô hình nhà nước kiến tạo phát triển như các nước Đông Á khác không.

Điều đáng nói là từ sự so sánh văn hóa này mà ông Dũng nhảy một phát sang kết luận rằng: “Việt Nam, quả thực cũng đã có những bước cải cách khá mạnh theo mô hình này [Ngọc: tức mô hình nhà nước kiến tạo phát triển], dù không hình thành khuôn khổ lý thuyết, chúng ta phát triển thị trường nhưng vai trò quản lý của Nhà nước rất được coi trọng”. Không hiểu ông lấy ở đâu ra chi tiết rằng “vai trò quản lý của Nhà nước rất được coi trọng” ở các nước Đông Á nói chung, Singapore nói riêng để suy ra rằng Việt Nam cũng giống các nước này, cũng rất coi trọng vai trò quản lý của Nhà nước?

Câu hỏi trên là để vạch ra sự thiếu logic trong lập luận của ông Dũng. Tuy nhiên, về ngữ nghĩa, Việt Nam hay bất kể nước nào cũng thế thôi, phải coi trọng vai trò quản lý của Nhà nước chứ? Nếu không thì thành ra nước loạn 12 Sứ quân à? Nói cách khác, coi trọng vai trò quản lý của Nhà nước là điều mặc định và là cơ sở để tồn tại của bất cứ nhà nước chính danh nào, chứ tuyệt nhiên không phải là sản phẩm hay đích hướng đến của bất cứ mô hình nhà nước nào. Để dễ hiểu hơn, thử hỏi ngược lại, chẳng nhẽ những nước được cho là không theo mô hình nhà nước kiến tạo phát triển như phương Tây và Bắc Âu lại không coi trọng vai trò quản lý của nhà nước, lại là những nước mà nhà nước/chính phủ không có vai trò đáng kể gì trong phát triển kinh tế, và nếu như vậy dân chúng lại để yên cho họ quản lý mình?

Nói dài dòng, vòng vòng vậy để chốt lại một ý rất quan trọng ở đây là ông Dũng dường như đã nhầm lẫn, đánh đồng vai trò/sự quản lý nói chung của nhà nước với những hành động đặc thù, cụ thể hơn của nhà nước mà ông nêu ở các phần sau như trực tiếp tham gia, đầu tư của nhà nước vào các hoạt động kinh tế, sự can thiệp, hỗ trợ của nhà nước (cho các tập đoàn như Vinfast). Đây mới là điều nguy hiểm nếu chính thể này nghe theo và cố gắng thực hiện (lại) những kiến nghị kiểu này. Vấn đề này sẽ được nói tiếp ở bài 3.

(Còn nữa)   

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).