Wednesday 8 February 2023

Kỳ quặc những lý do

Thiên hạ dường như có thù ghét, thích quy tội ngân hàng thương mại, nhất là chuyện về lãi suất cao này nọ. Hãy lấy một vài ví dụ minh họa để thấy chuyện thù ghét, thích quy tội này, nhưng lại bằng những lý do kỳ quặc.

Ví dụ thứ nhất, như trong bài này, https://cafef.vn/phai-som-giam-lai-suat-cho-vay-20230208074408603.chn , đồng chí Tùng cho biết công ty phải vay 40 triệu USD nên bị ảnh hưởng lớn bởi tỷ giá và lãi suất nên đòi chính phủ phải có chính sách hỗ trợ, kéo giảm lãi suất. Khôn quá thì chết đồng chí Tùng ạ. Bởi chính vì lý do muốn được hưởng lãi suất thấp nên đồng chí quyết (đòi) vay ngân hàng bằng USD, những mong được hưởng lãi suất 1-2% thay vì trên chục % như với khoản vay tiền đồng. Nhưng ngờ đâu cơ sự lại ấm ớ khi Fed chơi xấu quyết tăng lãi suất USD đến trên 5% hoặc hơn, làm cho khoản vay của đồng chí chắc còn chịu lãi suất cao hơn thế. Nên có trách và phê phán trước tiên phải là mình (khi đi vay bằng USD phải biết rủi ro kèm theo đó), sau đó đến Fed, chứ không phải là ngân hàng, cũng không phải là Chính phủ. Ngân hàng và Chính phủ chẳng thể làm gì giúp đồng chí trong chuyện lãi suất, trừ khi đồng chí đòi họ phải cắt máu, xẻ thịt mình ra để trợ cấp cho cái khôn lỏi hóa... dở của đồng chí. Có kêu cứu, giãi bầy này nọ thì cũng phải nghĩ ra lý do cho ra hồn một chút. Cả báo chí cũng vậy, cứ thế mà nhắm mắt đăng bài, chẳng thèm hiểu mình đăng cái gì.

Ví dụ thứ hai, lấy luôn từ bài trên cho tiện, là chuyện đồng chí Quý than vãn thiếu vốn do không tiếp cận được vốn ngân hàng, dù chấp nhận vay với lãi suất 14%-15%. Chuyện của đồng chí Quý là rất phổ biến hiện nay, nhưng tiếc là không phải lỗi của ngân hàng như thiên hạ vẫn đang chĩa mũi dùi vào.

Nói trước tiên về lãi suất cao, chuyện này chẳng phải là do ngân hàng thương mại thích cao thì đặt cao. Nguồn gốc của lãi suất cao phải đi hỏi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là tại sao không cho vay/cấp vốn cho các ngân hàng thương mại với lãi suất thấp. Đến lượt NHNN thì quả bóng sẽ được đá sang... tận Mỹ, bởi, như nói ở trên, bọn Fed phản động, gian ác đã đơn phương làm khó thế giới bằng cách nâng lãi suất vù vù, buộc các nước phải nâng theo. Tất nhiên, về phần mình, Fed chắc luôn muốn thanh minh là nó buộc phải ác thế bởi lý do này kia (không cần nói đến trong bài này). Tóm lại là rốt cuộc chẳng có ai chịu trách nhiệm cho chuyện lãi suất tự nhiên tăng vọt lên ở Việt Nam, và ngân hàng thương mại đương nhiên sẽ trở thành tội đồ vì... không còn ai khác để thế chỗ!

Còn chuyện doanh nghiệp không tiếp cận được vốn vay ngân hàng thì cũng liên quan trước hết đến NHNN thôi, ở 2 khía cạnh. Một là các quy định hoạt động an toàn NHNN đã ban hành, đòi hỏi ngân hàng thương mại phải tuân thủ nên chúng không thể cứ thích cho vay là cho vay, dẫu doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận lãi suất vay cao. Hai là, tại vì Fed nên NHNN phải nâng lãi suất chính sách, thậm chí thế vẫn chưa đủ mà phải bóp thêm cả việc bơm tiền ra nền kinh tế để lạm phát và tỷ giá không tăng thêm lên. Tất nhiên đến lượt mình thì NHNN cũng... vô tội bởi nó cho rằng nó buộc phải làm vậy. Bởi vậy, chỉ còn ngân hàng thương mại là nạn nhân bị nguyền rủa vì cái tội không chịu cho doanh nghiệp vay.

Ví dụ thứ ba, thôi lại lấy từ cùng bài trên, là chuyện đồng chí Họa kiến nghị ngân hàng ưu tiên room tín dụng, hoặc rộng hơn thì nhiều doanh nghiệp kiến nghị NHNN nới thêm room tín dụng để ngân hàng tăng cho vay doanh nghiệp. Điều này kỳ quặc ở chỗ room tín dụng không phải là lời giải của việc ngân hàng có tăng cho vay được hay không. Dù có thêm room tín dụng nhưng NHNN không hạ lãi suất chính sách, không tăng bơm tiền ra nền kinh tế thì ngân hàng thương mại cũng không có đâu tiền mà tăng cường cho vay doanh nghiệp, mà lại với lãi suất thấp nữa chứ. Dẫu vậy thì rốt cuộc cũng chỉ có ngân hàng thương mại là nạn nhân dễ bị tóm tóc ăn vạ nhất mà thôi.


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).