Friday 17 February 2023

Nhà nước sẽ in tiền cứu bất động sản?

Ngày 17/2/2023 có một số thông tin đáng chú ý về tín dụng cho bất động sản. Đó là việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thông báo chủ trương về 2 gói cho vay bất động sản. Gói thứ nhất là 110 nghìn tỷ đồng cho xây dựng dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân theo đề xuất của Bộ Xây dựng. Gói thứ hai là 120 nghìn tỷ đồng cho cả người xây dựng và người mua nhà do 4 ngân hàng có vốn nhà nước đảm nhận.

Trước các thông tin này, dư luận cho rằng Nhà nước in tiền để giải cứu bất động sản, mà thực chất là giải cứu những ông chủ doanh nghiệp bất động sản, những nhà đầu cơ, giải cứu người giàu v.v... Rồi nữa là in tiền thế này tức là nới lỏng chính sách tiền tệ, sẽ tạo ra lạm phát...

Cáo buộc trên phần nào có lý, bởi suy cho cùng, nguồn gốc của những đồng tiền dành cho giải cứu này là từ NHNN, tức từ in tiền ra cung cấp cho các ngân hàng thương mại.

Tuy nhiên, có một số vấn đề cần chú ý về chuyện in tiền này.

Đối với gói 110 nghìn tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội, bên cạnh sự khẳng định sự cần thiết của nó (mà tớ cho rằng ít nhiều cũng đúng, nhất là khi dùng nhà trong phân khúc này để cho thuê, chứ không phải là bán đứt cho công nhân, người thu nhập thấp), NHNN cũng nói khá rõ về nguồn tiền này: “Nhưng nguồn vốn từ đâu cũng phải cân nhắc, tức là với nguồn vốn từ tái cấp vốn, là cung ứng tiền ra với thời gian dài hạn, có thể làm giảm tính linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ. Vì vậy, cần tính toán nguồn vốn tổng thể trên cơ sở chính sách tiền tệ cũng đang thực hiện nhiều chỉ đạo của Chính phủ về tái cơ cấu như tái cơ cấu ngân hàng 0 đồng… và ở các lĩnh vực, các ngành kinh tế khác.”

Nói như trên (và đương nhiên phải nói vậy, từ góc độ ngân hàng trung ương), NHNN cho thấy rõ nguồn tiền này là từ NHNN, từ in tiền (để tái cấp vốn – cho ngân hàng thương mại). Điều quan trọng là “cần tính toán nguồn vốn tổng thể trên cơ sở chính sách tiền tệ cũng đang thực hiện nhiều chỉ đạo...”.

Nói cách khác, dù là in tiền, tái cấp vốn nhưng nguồn tiền mới này sẽ nằm trong hạn mức cung tiền 14-15% cho năm nay mà NHNN đồng thời công bố. Nếu tung từng  này tiền ra cho bất động sản bình dân thì rất có thể từng đó tiền sẽ bị cắt giảm ở các ngành, các phân khúc khác. Nói khác đi nữa, dù không có gói giải cứu này thì vẫn sẽ có thêm một lượng lớn tiền mới được bơm ra cho nền kinh tế để đảm bảo tăng trưởng tín dụng đạt 14-15%.

Về gói tín dụng bất động sản 120 nghìn tỷ đồng, theo thông báo thì đây là gói tín dụng ưu đãi (lãi suất thấp hơn từ 1,5% đến 2%/năm lãi suất cho vay bình quân trên thị trường) được cung cấp bởi 4 ngân hàng thương mại nhà nước, và có khả năng mở rộng ra các ngân hàng khác nếu họ cũng muốn tham gia. Thoạt nghe thì tưởng nguồn vốn cho gói này là của ngân hàng thương mại nhà nước (và của các ngân hàng khác nếu tham gia sau này).

Tuy nhiên, NHNN lại “bảo kê” cho các ngân hàng này: “Trong quá trình triển khai, nếu các ngân hàng tham gia mà bị thiếu hụt về thanh khoản thì NHNN sẵn sàng tái cấp vốn cho để triển khai tiếp.”

Về nguyên tắc, ngân hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng tham gia khác, nếu có, cũng phải huy động vốn từ thị trường, với lãi suất huy động cạnh tranh, nên họ cũng sẽ phải cho vay theo lãi suất thị trường để đảm bảo lợi nhuận. Với cam kết cho vay ưu đãi như trên thì đương nhiên là họ sẽ gánh thiệt hại.

Nên ở đây có 2 khả năng. Một là các ngân hàng tham gia gói 120 nghìn tỷ này công bố đồng thuận tham gia là để cho có, làm màu, và nếu có cho vay thì sẽ ở mức độ tối thiểu, thậm chí là chỉ dành cho khách ruột.

Hai là, với cam kết sẵn sàng tái cấp vốn của NHNN, các ngân hàng thương mại sẽ tích cực cho vay bởi tội vạ đâu thì NHNN chịu, còn lãi thì mình hưởng. Rốt cuộc, 120 nghìn tỷ này cũng sẽ phải tính vào trong hạn mức cung tiền và tăng trưởng tín dụng cho năm nay, đồng nghĩa với có thêm nhiều ngành nghề và doanh nghiệp khác không được vay vốn.

Khả năng nào sẽ lớn hơn? Chưa thể biết, trừ chính người trong cuộc. Cũng có thể là các ngân hàng thương mại dưới sức ép của NHNN, của dư luận phải đi đầu trong công cuộc tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, và vì trót mang danh là ngân hàng thương mại nhà nước, nên phải nghĩ ra một “sáng kiến đồng thuận”, và đó chính là gói 120 nghìn tỷ.

Đến lượt mình, cũng có thể NHNN dưới đủ loại áp lực từ tứ phía cũng phải nghĩ ra một cái gì đó để gọi là cho có, để mua thời gian, và đó có thể chính là gói 120 nghìn tỷ, được “gợi ý” cho 4 ngân hàng thương mại nhà nước. Cuối cùng thì bên nào cũng giả vờ như thật và sẽ không có một biến chuyển đáng kể theo hướng hỗ trợ lãi suất này.

Tớ thiên về hướng giả vờ này hơn, có xem xét cả kết quả của các gói giải cứu, hỗ trợ đủ loại cho đến nay. Tóm lại là nói rằng ngân hàng giải cứu bất động sản nhưng nếu có thật thì hầu như chỉ có gói 110 ngàn tỷ, với ít thắc mắc và phản đối, và cũng ít để lại hậu quả vĩ mô cho nền kinh tế.  

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).