Nhiều năm gần đây
đã cho thấy nhiều trường hợp các quyết định sản xuất kinh doanh, nhất là của/liên
quan đến khối doanh nghiệp nhà nước được hoạch định và thi hành dựa vào ý chí
chủ quan, cũng như niềm tin và hy vọng mơ hồ của những người cầm chịch, chứ
không phải là dựa trên cơ sở những tính toán về kinh tế vốn là cách làm thông
thường của những doanh nghiệp cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Một trong những
ví dụ điển hình về chuyện dựa vào niềm tin là trường hợp của Vinashin. Năm
2010, sau khi mọi việc bung bét, Vinashin bên bờ vực phá sản và Chính phủ buộc
phải tái cơ cấu nó, đã có vị lãnh đạo mạnh miệng tuyên bố đại ý là đến năm 2012
thì Vinashin hết lỗ và đến năm 2014 thì bắt đầu có lãi. Nói chung là cũng có
phân tích này kia để dẫn đến được kết luận này, chẳng hạn như tái cơ cấu, tập
trung vào ngành nghề chính, tiếp tục sản xuất kinh doanh v.v... nhưng không khó
để thấy rằng những phân tích đó không khác gì việc “đếm cua trong lỗ”, dựa đơn
thuần vào ý chí chủ quan và niềm tin đã quyết tâm làm thì sẽ làm được, làm tốt,
đạt được kết quả như mong muốn.
Và thực tế đã tỏ
ra phũ phàng hơn thế nhiều khi cho thấy Vinashin không những không hết lỗ mà còn bị cho “biến mất”, thay vào đó là
một công ty mang tên khác, với những khoản nợ khổng lồ được phân tán cho các
nơi khác gánh hộ, hoặc treo, hoặc xóa.
Dự án “đình đám”
gần đây nhất là dự án bô xít ở Tây Nguyên, vốn đã hứng chịu nhiều phản biện
trái chiều của dư luận. Theo báo cáo đánh giá của đoàn giám sát của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội, cũng như đại diện của Chính phủ là Bộ Công thương là dự án “có hiệu quả, cho dù không cao”. Về phía Bộ Công thương, họ đưa ra những lý lẽ minh chứng
tính hiệu quả của dự án một cách khá dễ dãi. Ví dụ, “sản phẩm alumin(a) sản xuất
ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó”. Đương nhiên là nếu bán rẻ thì sẽ tiêu thụ hết
ngay thôi, có gì để nói lên tính hiệu quả ở đây đâu?
Và vì giá tiêu thụ
của alumina Việt Nam ở thời điểm này (và cả trước đó) chắc chắn thấp xa so với
mức giá có lãi khi lập dự toán (hiện giá alumina giao ngay FOB từ Úc là 316 USD/tấn vào ngày 16/5, và trung bình là
USD323/tấn trong 5 tháng đầu năm 2014, 327 USD/tấn năm 2013, so với giá mà
Vinacomin ước tính có lãi là 362 USD/tấn;[1]
xem Hình 1 về giá dưới đây) nên cho dù có bao biện rằng dự án bô xít này có hiệu
quả ở mặt gì đi chăng nữa thì về mặt kinh tế phải nói nó là một dự án tồi,
không hiệu quả.
Ngoài ra, với giá
thành sản xuất tại thời điểm 3/2013 là 6,5 triệu đồng/tấn (trên 310 USD/tấn)[2]
và giả thiết là mức này không đổi cho đến thời điểm hiện tại thì có thể nói tính
cạnh tranh về giá thành (chưa nói đến chất lượng) của alumina sản xuất tại Việt
Nam đang rất kém. Cụ thể, từ Hình 2 minh họa về giá thành sản xuất alumina của
thế giới, ta thấy Việt Nam đang nằm ở phía cuối của nhóm 3 hoặc đã lọt vào nhóm
4 là nhóm có giá thành cao nhất (mỗi nhóm đại diện 25% sản lượng thế giới). Nói
cách khác, chi phí sản xuất alumina ở Việt Nam đang rất cao so với mức trung
bình của thế giới, nên Vinacomin sẽ là một trong những nhà sản xuất phải đóng cửa
trước tiên khi giá alumina thế giới trong tương lai tiếp tục ở mức thấp như hiện
tại (giả thiết rằng Chính phủ không có ưu đãi, cứu trợ, hỗ trợ gì).
Để phần nào trấn
an dư luận, các quan chức hữu trách đưa ra dự báo rằng giá bán alumina sẽ tăng lên
khoảng 400 USD/tấn vào năm 2018 (trở đi), và tin rằng dự án “sẽ đỡ rủi ro hơn”.
Đồng ý rằng giá alumina cũng có khả năng tăng lên đến mức này (mặc dù cần lưu ý
rằng dự đoán thường cũng không hiếm khi sai). Nhưng điều cần chú ý là trong phần
tăng lên của giá bán này có mặt của lạm phát. Đối với giá thành sản xuất alumina
tại Việt Nam, của Vinacomin, cũng vậy, giá bán có thể tăng lên nhưng cũng rất
có thể sẽ đồng hành với giá thành tăng lên, một phần do lạm phát. Nếu thế thì
biên độ lợi nhuận hoàn toàn có khả năng không được cải thiện, nếu không muốn
nói là sẽ kém đi (và Vinacomin vẫn thuộc trong số những nhà sản xuất alumina
kém hiệu quả nhất thế giới). Do đó, niềm tin rằng dự án “sẽ đỡ rủi ro hơn” cũng
rất... chập chờn và mơ hồ trong tương lai mấy (chục) năm nữa.
Các quan chức cũng
bổ sung thêm yếu tố là có thể khai thác sắt từ bùn đỏ của dự án bô xít như là một
điểm cộng cho tính hiệu quả của dự án. Nhưng có điều đây cũng chỉ như việc “đếm
cua trong lỗ”, vì để biến thành hiện thực, Vinacomin lại có thể vấp phải thêm một
vòng luẩn quẩn nữa: vay nợ, đầu tư, sản xuất kém hiệu quả, thua lỗ, vay nợ/xin
ưu đãi, hỗ trợ, xóa nợ...
Sau cùng, một số “ưu
điểm” khác của dự án như giải quyết công ăn việc làm, văn hóa, môi trường ....
cũng được liệt kê ra, nhưng nói cho cùng số tiền (dự tính) thua lỗ từ việc sản
xuất alumina nếu để dành làm những dự án khác cho vùng đất Tây Nguyên này thì
có lẽ sẽ còn mang lại hiệu quả trực tiếp lớn hơn nhiều.
Tóm lại, với tư
duy làm dự án (bởi các doanh nghiệp nhà nước) ở Việt Nam phần nhiều mang nặng
tính chủ quan, duy ý chí, dựa vào niềm tin và quyết tâm chính trị nhiều hơn là
những tính toán lỗ lãi về kinh tế thuần túy, không khó hiểu khi nhiều dự án lớn
nhỏ đã và đang thua lỗ nặng nề, dường như không lối thoát. Riêng đối với dự án
bô xít, cũng đã đến lúc cần mạnh dạn thừa nhận tính không hiệu quả (về kinh tế)
của nó để sớm có quyết định phù hợp, ít gây tổn thất nhất cho xã hội. Nếu vẫn cứ
muốn nhấn mạnh đến mục tiêu phi kinh tế thì tốt nhất là làm các dự án riêng biệt
và trực tiếp nhằm đến các mục tiêu đó.
[1] http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/can-tam-dung-du-an-alumin-nhan-co-20130509114451754.htm
[2] Đã dẫn.
No comments:
Post a Comment