Thursday, 29 May 2014

Triển vọng xếp hạng tín dụng của VN vẫn ổn định (Bài đăng trên TBKTSG Online, 30/5/2014)

http://www.thesaigontimes.vn/115641/

(TBKTSG Online) - Trước tình hình xung đột với Trung Quốc trên Biển Đông có khả năng leo thang và tình trạng mất an ninh ngắn hạn ở một số khu vực của Việt Nam vừa qua, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã e ngại về triển vọng xấu đi của môi trường đầu tư ở Việt Nam. Họ băn khoăn liệu các hãng xếp hạng tín dụng quốc tế có điều chỉnh lại triển vọng xếp hạng hoặc tệ hơn là đánh tụt hạng tín dụng của Việt Nam.

Trao đổi trực tiếp với hai tổ chức xếp hạng chủ chốt là Standards and Poor’s (S&P) và Moody’s tại Singapore, nơi tiến hành xếp hạng tín dụng quốc gia Việt Nam, cộng tác viên của TBKTSG Online đã nhận được câu trả lời rõ ràng.
 
Với Moody’s, cuộc xung đột với Trung Quốc ở vùng biển của Việt Nam hiện nay không ảnh hưởng đến triển vọng xếp hạng của Việt Nam.
 
Còn với S&P, câu trả lời cũng tương tự, với lý giải rằng thứ nhất, việc Trung Quốc mang giàn khoan xâm phạm vùng biển chủ quyền của Việt Nam chỉ là một sự kiện có tính ngắn hạn trong một chuỗi sự kiện có tính dài hạn tương ứng với chiến lược thôn tính dần dần Biển Đông của Trung Quốc.
 
S&P bình luận rằng sự việc hiện nay được đẩy đi bao xa và đến mức độ nào là điều không ai có thể biết chắc được, mặc dù họ tin rằng và hy vọng hai chính phủ đều kiềm chế để sự việc không leo thang thành xung đột quân sự.

Thứ hai, về tình trạng mất an ninh do các cuộc biểu tình mang tính bạo loạn ở một số nơi như vừa qua, S&P cho rằng đó chỉ là những phản ứng tức thời của một bộ phận người dân quá khích trước hành động bạo ngược của Trung Quốc. S&P cũng nhìn nhận những nỗ lực kiểm soát tình hình và ngăn chặn những vụ việc tương tự nổ ra của Chính phủ Việt Nam để chúng không còn là mối đe dọa đến an ninh cho các nhà đầu tư ở Việt Nam nữa.
 
Liên quan đến những phản ứng tiêu cực của thị trường chứng khoán, giá vàng và tỷ giá ngoại tệ, liệu có phải đây là dấu hiệu tháo chạy của nhà đầu tư hay không, S&P bình luận rằng trước bất cứ một biến cố nào, thông thường bao giờ cũng có những phản ứng tiêu cực như vậy, và S&P không lo ngại về chuyện này ở Việt Nam hiện nay.
 
Thậm chí S&P còn cho rằng tác động của xung đột trên Biển Đông với Trung Quốc hiện nay và hậu quả của nó lên triển vọng xếp hạng của Việt Nam không lớn bằng tác động của, chẳng hạn, sự giảm tốc trong tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, vốn sẽ trực tiếp và gián tiếp làm chậm lại đà tăng trưởng GDP và xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Và đây mới là một trong những căn cứ chính để S&P xem xét điều chỉnh xếp hạng tín dụng quốc gia của Việt Nam.
 
Như vậy, nhà đầu tư trong và ngoài nước bước đầu có thể yên tâm vào triển vọng xếp hạng ổn định của Việt Nam. Nhưng cần phải lưu ý rằng nhận định trên của S&P và Moody’s được đưa ra trên cơ sở giả định rằng cuộc xung đột không leo thang nguy hiểm kéo theo những rủi ro lớn khác cho Việt Nam.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).