Sunday, 28 September 2014

Nên chọn kênh đầu tư nào? (Bài đăng trên TBKTSG, 25/9, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/120459/5-nguyen-tac-de-chon-kenh-dau-tu.html

Có lẽ câu hỏi này không bao giờ là cũ với đại bộ phận người có tài sản đầu tư, bởi tài sản của người ta cũng thăng trầm theo thời gian, trong khi thị trường các loại tài sản thì luôn biến động làm cho danh mục đầu tư của một người nào đó thoạt đầu có thể là lý tưởng nhưng rốt cuộc lại trở nên lỗi thời trước diễn biến mới trên thị trường của các loại tài sản.
Vì mục đích đầu tư, mức độ chấp nhận rủi ro, mức độ dấn thân vào các thị trường, khả năng tính toán, khả năng “lỳ đòn” với thị trường, khối lượng tài sản, cơ cấu tài sản, và mục đích chi tiêu tài sản, và cả... vận may v.v... của từng người là khác nhau nên chắc chắn không thể đưa ra một câu trả lời chung nên đầu tư vào đâu cho hiệu quả nhất đối với tất cả mọi người. Bởi vậy, những ai vẫn có thể dõng dạc cho lời khuyên rằng nên đầu tư vào một loại tài sản nào đó, ví dụ, gửi tiết kiệm, là có lợi nhất thì đó là một lời khuyên vô dụng, để đó cho vui mà thôi, thậm chí là nguy hiểm với những người chậm chân, đến muộn.

Nói vậy nhưng không có nghĩa là không có những nguyên tắc đầu tư chung làm cơ sở để từng người cân nhắc và áp dụng xây dựng cho mình một danh mục đầu tư hợp lý nhất trong khả năng của mình.
Nguyên tắc thứ nhất và quan trọng nhất, khoản đầu tư nào mang lại lợi nhuận cao, nhất là trong thời gian ngắn, thì thường là những khoản đầu tư có độ rủi ro cao. Nói cách khác, không có tài sản nào vừa an toàn (tuyệt đối) lại vừa sinh lãi cao cả. Bởi vậy, nếu ai theo đuổi lợi nhuận thì nên đầu tư vào những tài sản có biên độ biến động giá mạnh, như vàng và kim loại quý/kim loại mầu. Tất nhiên là những nhà đầu tư tiềm năng vào những loại tài sản này nên chuẩn bị sẵn tinh thần chịu thua lỗ vài chục phần trăm trong một vài tuần.

Ngược lại, với những người có tinh thần “chắc ăn” thì hầu như chắc chắn đó là khoản gửi tiết kiệm, là khoản đầu tư tuy có mức sinh lời tối thiểu nhưng cũng có tính rủi ro ít hơn (nhưng không phải là không có rủi ro, ví dụ, khi lạm phát có xu hướng tăng nhanh).
Nguyên tắc thứ hai, để tránh tạo thêm rủi ro thì nên đầu tư bằng cùng một loại tài sản giống nguồn thu/huy động. Nên nhớ rằng “tay không” không phải lúc nào cũng “bắt được giặc”. Sẽ là rất rủi ro nếu, chẳng hạn, vay USD bán đi mua tiền đồng rồi gửi tiết kiệm hưởng chênh lệch lãi suất.

Tương tự, để tránh tạo thêm rủi ro thì cũng nên đầu tư vào loại tài sản nào mà rốt cuộc thì người chủ phải dùng loại tài sản đó để chi tiêu hoặc thanh toán, nhất là trong ngắn hạn. Chẳng hạn, nếu có một khoản tài sản đủ để mua một bất động sản nào đó ở Việt Nam (bằng VND) trong nửa năm tới thì có thể cân nhắc đến việc hoán đổi các tài sản của mình ra VND và đem gửi tiết kiệm ngắn hạn. Tất nhiên, về nguyên tắc là vẫn có thể dùng tài sản đó để mua vàng, USD hoặc chứng khoán v.v... rồi bán đi thu về VND trong vòng mấy tháng này, nhưng không ai chắc chắn được lợi nhuận thu được từ những tài sản này lớn hơn lãi gửi tiết kiệm, đó là chưa kể trường hợp “cụt” cả vốn, không mua được nhà nữa do thị trường biến động mạnh.
Nguyên tắc thứ ba, đầu tư vào một loại tài sản nào đó có lời nhiều hay không chỉ mang tính thời điểm, trước khi hành vi đầu tư bầy đàn làm biến mất cơ hội sinh lời đó, chỉ còn lại cơ hội thua lỗ. Ví dụ, cổ phiếu nói chung và cổ phiếu của một doanh nghiệp nào đó có thể mang lại một lợi nhuận trong mơ, nhưng điều này chỉ đúng, chỉ xảy ra trong vòng một giờ, vài giờ, hoặc vài ngày, cho những nhà đầu tư nhanh chân nhất, cả lúc đến và lúc thoát ra. Do đó, đừng nên bắt trước hay hỏi ý kiến người bên cạnh, đặc biệt là các chuyên gia!

Nguyên tắc thứ tư, kỳ hạn có thể đầu tư càng ngắn trong khi nhu cầu phải bảo toàn vốn càng cao (ví dụ, sắp phải trả tiền cho con học ở nước ngoài) thì chỉ nên đầu tư vào những tài sản nào có tính an toàn tương đối nhất (và tất nhiên là mức sinh lời cũng kém nhất). Trong ví dụ về trả tiền học cho con bằng ngoại tệ, nếu từ nay đến lúc phải trả tiền chỉ là một thời gian ngắn, tính bằng tuần, bằng tháng thì có lẽ nên cân nhắc mua ngoại tệ và gửi vào ngân hàng với kỳ hạn ngắn.
Ngược lại, khoản tài sản hiện có có tính nhàn rỗi lâu dài, tính bằng năm, thì kênh đầu tư sẽ đa dạng hơn, và lúc này thì khẩu vị rủi ro và khả năng riêng của từng người sẽ giúp quyết định được nên đầu tư vào đâu cho phù hợp với “tạng” của mình nhất.

Nguyên tắc thứ năm, mức độ, khả năng và thời gian dấn thân, kỹ năng, kinh nghiệm, trình độ phân tích v.v... càng nhiều thì mới nên đa dạng hóa (và luân chuyển thường xuyên) các hạng mục tài sản trong danh mục đầu tư của mình. Nhìn chung, với sự đầu tư kiểu “tay mơ” thì kết quả mang tính may rủi, “được chăng hay chớ” là nhiều hơn. Với những người này, cũng có thể cân nhắc hình thức ủy thác đầu tư cho những quỹ chuyên nghiệp, có uy tín.
Ngoài ra còn một số nguyên tắc khác, nhưng những nguyên tắc trên là những nguyên tắc cơ bản giúp mỗi nhà đầu tư tiềm năng khám phá được mình cần gì, và nên làm gì với khoản tài sản của mình.

Thursday, 25 September 2014

Lại nói thêm về năng suất lao động Việt Nam thấp

Đọc phát biểu của đại diện ILO, ở đây tạm gọi là đồng chí Tây, về lý do năng suất lao động (NSLD) của Việt Nam thấp kém, tớ lại thấy có mấy điều không ổn thế này.

1. Đồng chí Tây nói:
Năng suất lao động thường được định nghĩa là số lượng sản phẩm (GDP) được tạo ra trên một đơn vị người lao động làm việc (hoặc trên mỗi giờ lao động). Theo hướng dẫn về đo lường năng suất của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế), năng suất lao động dựa trên giá trị gia tăng là thông số phổ biến nhất để tính toán năng suất lao động.

Năng suất lao động dựa trên giá trị gia tăng là một chỉ số gián tiếp tốt thể hiện mức độ phát triển của nền kinh tế của một quốc gia. Khi phân tích các thị trường lao động, chỉ số này thường được ưa chuộng hơn chỉ số về GDP trên đầu người (GDP trên đầu người được tính bằng tổng GDP chia cho tổng dân số, bao gồm cả trẻ em và người hưởng lương hưu).


Năng suất lao động là một thông số quan trọng làm cơ sở để xác định mức lương. Báo cáo mới đây của ILO/ADB về Cộng đồng ASEAN 2015 cho thấy những quốc gia có năng suất lao động cao thường có mức lương cao hơn.
Tớ bình luận: Vậy thì ILO dùng chỉ tiêu đo lường nào ở đây? Sao không nói rõ luôn là ILO dùng GDP/người, hay giá trị gia tăng/người, hay tiền lương/người? Báo cáo mình làm ra mà không biết, không nói rõ luôn ra được là mình dùng chỉ tiêu gì là cớ gì vậy?
Nếu là giá trị gia tăng/người hoặc tiền lương/người thì ILO moi ở đâu ra những số liệu này?

2. Đồng chí Tây viết:
Không, không thể đánh giá năng suất lao động thông qua trực quan như vậy. Năng suất lao động của một quốc gia hầu như không thể phản ánh mức độ chuyên cần và khả năng của người lao động của quốc gia đó. Năng suất lao động tổng cũng không cho thấy được sự khác nhau về năng suất lao động giữa các ngành, nghề và đặc biệt là các nhóm doanh nghiệp.

Năng suất lao động của một quốc gia trước hết phụ thuộc vào mức độ hiệu quả sử dụng lao động kết hợp với các yếu tố sản xuất khác, như máy móc và công nghệ, và lượng máy móc và công nghệ mà một người lao động của quốc gia đó được sử dụng. Bởi vậy, nếu từ các thống kê năng suất lao động mà kết luận rằng người lao động ở Malaysia hoặc Singapore có thể tạo ra một sản phẩm cụ thể nào đó nhanh hơn người lao động ở Việt Nam là không đúng.


Tớ bình luận: Như tớ đã comment trong entry trước về NSLD rằng sử dụng thước đo NSLD kiểu này (GDP/người, tiền lương/người, hoặc giá trị gia tăng/người) là chẳng có ý nghĩa gì (tức vô dụng). Nay qua lời thừa nhận của ILO thì cũng thấy rằng chỉ tiêu NSLD của họ tính ra cũng chẳng dùng để so sánh được đúng nghĩa NSLD (sản lượng sản phẩm bình quân/người) giữa các quốc gia, thậm chí là giữa các ngành trong cùng một quốc gia, tức cũng có nghĩa là vô dung. Vậy thì ILO còn đưa ra những cái thứ vớ vẩn thế này để làm gì và Việt Nam sao phải phí công tranh luận chuyện vớ vẩn này làm gì (nói thêm dưới đây) nữa, như chuyện đồng chí GS Ohno Nhật dạo nào tự nhiên quăng ra cái chuyện bẫy thu nhập trung bình dọa Việt Nam vãi cả... ra.

Và cũng từ 2 phần trả lời trên của đồng chí Tây mới thấy lạ là tất cả mọi người, kể cả đồng chí Tây này, không hề (hay cố tình không?) nhận ra rằng NSLD đo bằng những thước đo ất ơ như thế thì đương nhiên sẽ cho những kết quả "khủng" như thế, và nguồn gốc của vấn đề là ở cái thước đo đấy chứ đâu phải ở những chuyện đao to búa lớn như nào là chuyển dịch kinh tế, gia nhập AEC, cải thiện chất lượng giáo dục, đào tạo v.v...

3. Góc nhìn của tớ
Khi tớ đọc những cái tin về những chuyện này, tớ hình dung ngay đâu là gốc rễ của vấn đề, như tớ đã nói ở trên. (Giả sử tớ đã nghĩ đúng nhé) tớ tưởng rằng trừ những người bình thường thì thôi không nói làm gì, những người khác, đặc biệt là các đồng chí giáo sư tiến sĩ ở Việt Nam sẽ nhanh chóng hiểu ra vấn đề như tớ (vì không có gì là khó hiểu, rắc rối, cao siêu cả).

Hóa ra không phải vậy! Đến ngay những giáo sư với tiến sĩ ở Việt Nam cũng sôi sục lên đi tìm lời giải, rồi thậm chí có đồng chí lại còn đi chất vấn Sam Sung để hỏi xem công nhân Việt Nam có năng lực không, có lười không v.v... Tóm lại là cả xã hội đã mất rất nhiều thời gian, công sức để "xử lý" một thông tin mà suy cho cùng là rất vớ vẩn, mang tên NSLD của ILO.

Và từ đây, tớ phải tự khen tớ một phát nữa rằng nhận xét của tớ về chuyện thiếu những cái đầu biết nghĩ ở Việt Nam là không sai một tẹo nào cả! Các đồng chí bạn đọc nào có tức tớ ở chỗ này thì lại phải suy nghĩ 2 lần trước khi phang tớ đấy nhé!

Cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia: Lợi kép (Bài đăng trên DNSG Online, 25/9, tiêu đề do báo đặt lại)

http://www.doanhnhansaigon.vn/online/dien-dan-doanh-nhan/thoi-su/2014/09/1083886/cai-thien-xep-hang-tin-nhiem-quoc-gia-loi-kep/

Mức độ xếp hạng tín nhiệm quốc gia do các hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế như Moody’s, Standards and Poors và Fitch đánh giá, cho biết mức độ rủi ro của môi trường đầu tư của các nước và xác suất tương đối một nước “con nợ” nào đó sẽ mất khả năng trả nợ.

Không chỉ với Việt Nam mà còn với hầu hết các nước trên thế giới, mức độ xếp hạng tín nhiệm quốc gia đóng vai trò rất quan trọng. Điều này là do đa phần các nước đang và sẽ phải đi vay mượn trên thị trường trái phiếu quốc tế, và do đó cần phải được đánh giá tín nhiệm để làm cơ sở cho các chủ nợ xác định lợi suất trái phiếu mà các nước này phát hành.

Mức độ xếp hạng tín nhiệm quốc gia - do các hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế như Moody’s, Standards and Poors và Fitch đánh giá - đóng vai trò quan trọng, không chỉ với Việt Nam mà còn với hầu hết các nước trên thế giới


Xếp hạng tín nhiệm quốc gia của một nước nào đó còn quan trọng bởi ngoài chính phủ nước đó ra thì các doanh nghiệp đóng tại nước đó cũng phải đi vay mượn trên thị trường vốn quốc tế, và do đó xếp hạng tín nhiệm quốc gia của nước đó cũng sẽ gây ảnh hưởng lên xếp hạng tín nhiệm của từng doanh nghiệp đi vay này. Cụ thể hơn, các hãng xếp hạng tín dụng hiếm khi đánh giá tín nhiệm một chính quyền địa phương hay một doanh nghiệp nào đó bằng hoặc cao hơn tín nhiệm quốc gia của nước đó.

Bên cạnh lợi suất, xếp hạng tín nhiệm quốc gia, và, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp còn quyết định mức lãi suất, địa chỉ được vay cho từng loại doanh nghiệp. Chẳng hạn, với ngân hàng thương mại ở EU muốn đi vay Ngân hàng Trung ương EU là ECB một khoản tiền nào đó, thì ECB sẽ dựa trên xếp hạng tín nhiệm của ngân hàng thương mại đó để quyết định lượng trái phiếu chính phủ ngân hàng thương mại này phải thế chấp tại ECB.

Ngược lại, một số doanh nghiệp, định chế ở một quốc gia có thể bị chi phối bởi những chế tài trong nước đó, như chỉ được đầu tư và/hoặc nắm giữ những trái phiếu và giấy tờ có giá có hạng tín nhiệm vượt trên một ngưỡng xác định. Do đó, nếu xếp hạng tín nhiệm quốc gia của một nước, và xếp hạng tín nhiệm của các doanh nghiệp nước đó bị đánh tụt xuống một ngưỡng xác định thì một số tổ chức đầu tư sẽ không (được) mua trái phiếu của quốc gia và doanh nghiệp nước đó.

Quan trọng không kém là xếp hạng tín nhiệm quốc gia còn được dùng để hấp dẫn FDI. Để kêu gọi đầu tư nước ngoài, nhiều quốc gia đã chủ động yêu cầu các hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế đánh giá tín nhiệm cho mình để cho nhà đầu tư tiềm năng thấy mức độ minh bạch hóa tài chính cũng như mức độ đáng tin cậy của môi trường đầu tư của mình.

Để đánh giá tín nhiệm, các hãng xếp hạng tín nhiệm thường dựa trên nhiều chỉ tiêu chính trị, xã hội và kinh tế. Các chỉ tiêu này thường là thu nhập bình quân đầu người, tăng trưởng GDP, lạm phát, cân đối ngân sách, cán cân đối ngoại, nợ nước ngoài, trình độ phát triển của nền kinh tế, lịch sử vỡ nợ, và cả những thông tin không công bố mà các hãng xếp hạng có được.

Nhìn chung, các hãng xếp hạng tín nhiệm có những phương pháp phân tích và lý giải khác nhau, do đó có nhiều trường hợp có chênh lệch trong xếp hạng tín nhiệm của cùng một nước nhưng do các hãng xếp hạng tín nhiệm khác nhau đánh giá.

Trong trường hợp Việt Nam, Moody’s mới đây đã nâng hạng tín nhiệm quốc gia lên một nấc ở mức B1 (tuy vẫn ở dưới mức đầu tư 4 nấc, và là mức có rủi ro cao), còn Fitch thì cho biết ý định nâng hạng tín nhiệm của Việt Nam lên BB- (3 nấc dưới mức đầu tư) trên cơ sở cải thiện về cán cân đối ngoại và nền tảng kinh tế nói chung trong thời gian 12 đến 18 tháng tới. Trong khi đó thì Standards and Poors chưa có động tĩnh gì, tuy xếp hạng của họ dành cho Việt Nam đã ở mức BB-.

Nếu tình hình kinh tế vẫn tiếp tục có những cải thiện về nền tảng kinh tế vĩ mô trong thời gian tới thì rất có thể Fitch và thậm chí là cả Standards and Poors sẽ có những động thái nâng hạng tín nhiệm của Việt Nam.

Như đã nói ở trên, sự cải thiện về xếp hạng tín nhiệm này sẽ đem lại nhiều kết quả tích cực cho Chính phủ Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Việt Nam nói riêng, thể hiện ở lợi suất trái phiếu do chính phủ hoặc doanh nghiệp Việt Nam phát hành sẽ giảm đi (tức chi phí đi vay sẽ giảm đi), nhu cầu nắm giữ trái phiếu do chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam phát hành của nhà đầu tư cả trong và ngoài nước sẽ tăng lên.
Mặt khác, Việt Nam sẽ trở nên hấp dẫn hơn nữa với tư cách là điểm đến cho dòng vốn FDI khi môi trường đầu tư đã được cải thiện một bậc qua cái nhìn của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế.
Do đó, điều quan trọng là Việt Nam phải tiếp tục tích cực duy trì và cải thiện những yếu tố mà các hãng xếp hạng tín nhiệm đã lấy làm căn cứ cho các hành động đánh giá của mình với Việt Nam, mà cụ thể là cán cân đối ngoại (ở thế thặng dư nhờ tăng xuất khẩu những mặt hàng có giá trị cao, thâm dụng vốn, thay vì hàng hóa nguyên liệu thô), lạm phát được kiểm soát và ổn định trong thời gian gần 2 năm qua, tăng trưởng GDP tuy có giảm đi so với trước nhưng vẫn ở mức khá nếu so với những quốc gia đối chứng khác, môi trường hoạt động của hệ thống ngân hàng đã ổn định trở lại làm giảm khả năng phải cứu trợ từ ngân sách trên quy mô lớn v.v... để từ đó hy vọng sự cải thiện về xếp hạng tín nhiệm sẽ đến sớm hơn.

Friday, 19 September 2014

Những vấn đề đang đợi Vietnam Airlines sau cổ phần hóa (Bài đăng trên Cafef, 19/9)

http://cafef.vn/thi-truong-chung-khoan/nhung-van-de-dang-doi-vietnam-airlines-sau-co-phan-hoa-201409191701419331ca31.chn

Phương án cổ phần hóa Vietnam Airlines (VNA) đã được Thủ tướng phê duyệt, chấp thuận hầu hết những đề xuất ưu đãi mà Bộ Giao thông Vận tải trình lên trước đó như giữ lại thặng dư vốn và bảo lãnh mua máy bay. Sau cổ phần hóa, nhà nước nắm giữ 75% vốn điều lệ; nhà đầu tư chiến lược nắm 20%; số cổ phần bán đấu giá công khai là 3,465%; phần còn lại sẽ bán ưu đãi cho người lao động và tổ chức công đoàn.

VNA cho biết hiện có hơn 1 hãng hàng không trên thế giới (trong đó có hãng ANA của Nhật) đang quan tâm tới VNA với mong muốn trở thành nhà đầu tư chiến lược. Tiêu chuẩn đặt ra cho nhà đầu tư chiến lược tương lai mà VNA tìm kiếm sẽ phải là người đồng hành trong quá trình phát triển dài hạn, chia sẻ lợi ích, mục tiêu phát triển VNA với các giá trị cốt lõi là hàng không, chứ không phải là bất động sản hay ngân hàng. Nhà đầu tư chiến lược cũng sẽ phải là người có tiềm lực tài chính, cam kết lâu dài xây dựng và phát triển VNA chứ không phải với mục tiêu ngắn hạn hay vì VNA đang rất cần tiền của nhà đầu tư đó.

VNA kỳ vọng rằng thông qua nhà đầu tư chiến lược, VNA sẽ có cơ hội mở rộng thị trường phát triển, tiếp cận các nguồn công nghệ mới mà VNA đang khó khăn. Các nhà đầu tư chiến lược có đội tàu bay mới và hạ tầng hiện đại là cơ sở để phát triển cho VNA, cũng như nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp.

Tuy nói thế, nhưng mặt khác, VNA lại cho biết nhà đầu tư chiến lược có thể là hãng hàng không hoặc nhà đầu tư tài chính chuyên nghiệp. Đến đây thì nảy ra một vấn đề. Đó là, phải chăng VNA thấy (các) nhà đầu tư chiến lược tiềm năng hiện tại, là (các) hãng hàng không ngoài ANA, sẽ khó (hoặc không thực sự mặn mà) trở thành nhà đầu tư chiến lược của VNA, nên buộc VNA phải đặt kỳ vọng vào nhà đầu tư chiến lược là nhà đầu tư tài chính chuyên nghiệp nào đó?
 
Nếu đúng vậy thì VNA khó hy vọng nhà đầu tư chuyên nghiệp này mang đến cho VNA những thứ mà họ đang cần, đang tìm kiếm ở nhà đầu tư chiến lược là một hãng hàng không nào đó như VNA nêu bên trên (về mở rộng thị trường, tiếp cận công nghệ, có đội tầu bay mới và hạ tầng hiện đại).

Nói cách khác, nếu VNA không tìm được một nhà đầu tư chiến lược là một hãng hàng không đẳng cấp quốc tế, mà chỉ là một nhà đầu tư tài chính (chuyên nghiệp) nào đó thì mục đích của cổ phần hóa, bắt tay với nhà đầu tư chiến lược để cùng phát triển sẽ bị hạn chế rất nhiều so với trường hợp nếu nhà đầu tư chiến lược là một hãng hàng không, vốn sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp khi phối hợp hoạt động với VNA.

Một điểm đáng chú ý khác về VNA sau cổ phần hóa là kế hoạch thay đổi cùng lúc toàn bộ đội tầu bay của hãng. Theo VNA cho biết, các nhà chế tạo tàu bay cũng phải thừa nhận, Vietnam Airlines đang làm điều mà ít hãng hàng không nào trên thế giới dám làm, đó là thay đổi cùng lúc toàn bộ đội tàu bay. VNA cho hay họ chỉ mất 3 năm để thay toàn bộ đội tàu bay Boeing 777, Airbus 330 sang Boeing 787 và Airbus 350. Mục tiêu thay đổi hoàn toàn diện mạo của hãng, không chỉ đội tàu bay, mà công nghệ, phương thức điều hành hiện đại, tiện nghi lợi ích cho hành khách cũng hoàn toàn khác.

Về vấn đề này, khó có thể nói đây là một kế hoạch hoàn hảo hay hợp lý được. Lại gặp ở đây tinh thần “đi tắt đón đầu”, “dám nghĩ dám làm” vốn tạo ra bao hệ lụy cho nền kinh tế! Chưa nói đến chuyện quá phiêu lưu khi dốc toàn lực (vốn đi vay là phần nhiều) ra để ôm về một lô máy bay mới, yếu tố con người, quản trị, kỹ thuật, công nghệ, dịch vụ, marketing v.v... làm sao có thể theo kịp một sự thay đổi lớn trong thời gian tương đối gấp gáp như vậy? Nếu cứ khăng khăng là làm được thì hãy nhìn lại ngay lời thừa nhận của các nhà chế tạo tầu bay rằng ít hãng nào trên thế giới dám làm là đủ nói lên mọi điều!
 
Ngoài ra, VNA sẽ rất có thể trưng ra sự chấp thuận bảo lãnh vốn vay của chính phủ để làm “bùa hộ mạng” trong việc mạo hiểm đi vay để mua và thay mới máy bay. Nhưng lại giống như Vinashin, rốt cuộc thì mọi hậu quả vẫn đổ lên ngân sách, tức là đổ lên đầu người dân nộp thuế. Và tại điểm này, câu hỏi trách nhiệm cần đặt ra cho chính phủ, tức người bảo lãnh những khoản vay của VNA.

Tỷ lệ nắm giữ của nhà nước sau cổ phần cũng là điều đáng bàn. Dù sau này có giảm đi chăng nữa thì nhà nước vẫn nắm giữ tối thiểu 65% vốn điều lệ, để không mất đi quyền phủ quyết, tức, về nghĩa đen, là quyền quyết định mọi thứ trong doanh nghiệp.
 
Nhà nước có lý của mình khi muốn duy trì quyền quyết định. Nhưng nhà đầu tư cũng sẽ vậy, hoặc ít ra thì không muốn quyền quyết định nằm trong tay một cổ đông thiếu năng lực là cổ đông nhà nước. Giống như tình huống với cổ phần hóa các cảng biển nêu trong bài: “Giảm tỷ lệ vốn sở hữu Nhà nước, tăng sức hút với nhà đầu tư”, nhà đầu tư nước ngoài sẽ cảm thấy yên tâm hơn về tính minh bạch khi sở hữu nhà nước giảm xuống dưới mức chi phối. Và lúc đó thì những nhà đầu tư thực sực có giá trị, nghiêm túc, có ý định lâu dài... mới muốn gắn bó, đồng hành và cùng phát triển với VNA. Bởi vậy, cũng khó mà mong một VNA sẽ lột xác hoàn toàn về bản chất (chứ không phải diện mạo bên ngoài với dàn máy bay mới toanh) sau cổ phần hóa, đặc biệt khi sở hữu nhà nước vẫn là tới 75%.

Cũng liên quan đến chi tiết sở hữu nhà nước chi phối này, nhà đầu tư khác sẽ không mấy yên tâm trong chuyện, ví dụ, nhà nước trung dụng máy bay của VNA cho các chuyến chuyên cơ khi nhà nước cũng chính là cổ đông chi phối trong VNA. Vì một lý do nào đó mà chuyện bay chuyên cơ này không thể minh bạch như cần có, đương nhiên những cổ đông khác, kể cả là cổ đông chiến lược, với tư cách “thấp cổ bé họng” hơn cổ đông nhà nước sẽ chẳng thể nào làm gì được. Bởi vậy, chi tiết nhà nước đặt hàng dịch vụ công sau khi VNA cổ phần hóa tưởng như là điều tích cực mà VNA đang đề cao thì thực ra không chắc sẽ được như vậy.

Những rào cản vào thị trường Liên minh hải quan Nga, Belarus, Kazakhstan (Bài đăng trên Cafef, 19/9)

http://cafef.vn/kinh-te-vi-mo-dau-tu/nhung-rao-can-vao-thi-truong-lien-minh-hai-quan-nga-belarus-kazakhstan-2014091907345504012ca33.chn

Việt Nam đang đàm phán FTA với khối Liên minh hải quan Nga, Belarus, Kazakhstan (LMHQ) và kỳ vọng có thể kết thúc đàm phán vào cuối năm nay.

Nhìn chung, FTA với khối LMHQ hứa hẹn đem lại nhiều cơ hội to lớn cho xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường khá nhiều tiềm năng này. Nhưng trên thực tế sẽ có nhiều rào cản phi thương mại làm cản trở đáng kể đến sự tiếp cận của hàng hóa Việt Nam vào thị trường này nếu những Hiệp định FTA ký kết với khối này không có những điều khoản buộc phía LMHQ phải loại bỏ hoặc hạn chế các rào cản phi thương mại này.

Rào cản tiếp cận thị trường đầu tiên phải kể đến là việc định giá hải quan, thủ tục thông quan, chứng nhận và các tiêu chuẩn kỹ thuật.

Sự phân loại mã hải quan không được áp dụng một cách nhất quán bởi Hải quan khối này, và các thuật ngữ mà Hải quan khối này dùng với các nhà nhập khẩu vào khối cũng không được giải thích một cách rõ ràng. Giá tham chiếu để áp thuế có thể biến thiên mạnh tùy thuộc nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm và thường bị tăng lên mà không được báo trước. Hàng hóa ký gửi với giá thấp hơn giá thị trường sẽ thường bị ách lại tại biên giới để thanh kiểm tra. Hơn thế, thông quan cho những hàng hóa có giá trị sẽ được ưu tiên, trong khi đó thông quan cho những hàng hóa khác thường sẽ bị chậm chễ.

Rào cản tiếp theo là các Chứng nhận GOST (chứng nhận tiêu chuẩn nhà nước), Giấy phép vệ sinh, hay các Bản cam đoan hợp quy (DOC). Các loại giấy tờ này sẽ được yêu cầu cho phần lớn các hàng hóa tiêu dùng được nhập khẩu vào và phân phối trong khối. Quy trình và thủ tục để xin được những loại giấy tờ này ngày càng dài ra và rắc rối. Mẫu hàng hóa cũng phải được cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra, phân tích, và đây sẽ là vấn đề với những loại hàng hóa có giá trị.
 
Để xin được giấy phép bán lẻ và nhập khẩu, người nước ngoài sẽ phải nộp các dữ liệu mật gồm thông tin về cơ sở sản xuất của nhà thầu phụ. Những quy định liên quan thường là không rõ ràng và thay đổi mà không được thông báo trước, tạo ra bất trắc về hiệu lực của các giấy phép này. Những sản phẩm đặc thù lại cần phải có thêm một số loại giấy chứng nhận khác.
Chẳng hạn rơm, cỏ tranh, các sản phẩm trang trí có nguồn gốc tự nhiên như hoa, lá khô, song mây, hoặc các loại sản phẩm gỗ không qua xử lý cần phải có chứng nhận kiểm dịch thực vật do chính quyền sở tại nơi nhập khẩu cấp. Những sản phẩm như thảm, rèm hay đèn chiếu sáng cần phải có Chứng nhận phòng cháy hay các bản Cam đoan không cháy. Các sản phẩm sol khí thì lại cần chứng nhận không phá hủy Ozone.

Cũng cần biết thêm rằng không có các thông tin rõ ràng và có thể đoán định trước được về các loại chứng nhận cần để nhập khẩu các hàng hóa tiêu dùng. Chỉ một số điểm hải quan có thể cung cấp chứng nhận kiểm dịch thực vật, và đây được coi là trở ngại lớn đối với thông quan nhập khẩu.

Tóm lại, khi đàm phán với LMHQ, Việt Nam cần phải đặc biệt chú trọng khai thông các rào cản phi thương mại, bao gồm thủ tục thông quan rắc rối và tốn thời gian, việc định giá tính thuế không rõ ràng, sự cấp phép và các quy định kỹ thuật phiền toái, nặng nề. Trên thực tế, thường đây mới chính là những rào cản lớn nhất hạn chế sự thâm nhập của hàng hóa Việt Nam vào thị trường này, chứ không hẳn chỉ là hàng rào thuế quan cao khi chưa có FTA.

Thursday, 18 September 2014

Nói một chút về bài về năng suất lao động thấp của VN trên TBKTSG

Bài này trên TBKTSG xuất hiện hôm nay. Đọc bài, các đồng chí trước tiên thấy có một số điểm thống nhất như trong bài về năng suất lao động của tớ mấy tháng trước mà nhiều đồng chí phang tới tấp.

Cụ thể, năng suất lao động (NSLD) được đo bằng GDP/tổng số (giờ) lao động nên đồng chí tác giả cũng tính/chỉ ra được tại sao NSLD của VN lại thảm hại đến thế.

Đồng chí tác giả dựa vào mô hình Slow để lập luận NSLD thấp là do:

(1) mật độ vốn thấp, mà theo tác giả là do nước đang phát triển. Bởi vậy, tớ cũng có thể suy ra NSLD thấp là vì nghèo, không có tiền mua máy móc, thiết bị. Đây cũng là lý luận của tớ.

(2) TFP thấp, mà theo tác giả là do (i) mức độ công nghệ và (ii) các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của nền kinh tế (luật pháp, thể chế kinh tế, khả năng phối thuộc, môi trường kinh doanh, ổn định vĩ mô, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đô thị hóa. Bởi vậy, lại có thể suy ra (i) là do nghèo. Còn (ii) thì chính là những cái tớ nói đến khi đề cập đến các giải pháp tăng GDP growth.

Để nâng cao NSLD, tác giả đề xuất:
(1) Doanh nghiệp quyết liệt nâng cấp công nghệ. Tớ hỏi ngược lại là nâng kiểu gì, tiền đâu ra? Nói thế thì ai cũng biết, nhưng vấn đề là nghèo thì lấy đâu ra tiền để nâng cấp công nghệ? Và tớ lại suy ra tiếp rằng NSLD thấp là vì nghèo, nghèo lại làm/trói NSLD thấp.
(2) Cải thiện hệ thống quản lý và dây chuyền sản xuất để hoạt động ngày một hiệu quả hơn; chú trọng nâng cao tay nghề cho người lao động; dịch chuyển sang ngành nghề mang lại giá trị gia tăng cao hơn. Trong khi đó, Nhà nước đóng vai trò then chốt trong nhiều vấn đề cơ bản: kinh tế vĩ mô ổn định, pháp luật có hiệu quả, môi trường kinh doanh thông thoáng, cạnh tranh, chính sách giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ hiệu quả...

Tớ bình luận rằng đây cũng chính là những biện pháp để nâng GDP growth mà tớ đã nói trong bài, chẳng có gì mới mẻ. Và tệ hơn, như tớ đã trả lời các đồng chí phang tớ, rằng nghèo và ngu (ít cái đầu nghĩ ra đươc, nhiều cái đầu phá), cộng với số phận đen đủi (trót theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chẳng hạn) thì lấy đâu tiền mà cải thiện hệ thống quản lý, mà dịch chuyển sang ngành nghề mang lại giá trị thặng dư cao, mà đảm bảo pháp luật hiệu quả và kinh doanh thông thoáng (làm sao được khi mà nhà nước ví dụ, muốn kiểm soát tất cả vì "theo định hướng"...), mà nâng cao giáo dục đào tạo và công nghệ được cơ chứ (muốn làm cái này thì phải có tiền)?

Tóm lại, bài này có mấy cái được, thứ nhất là nêu nguồn gốc NSLD thấp là do đo bằng GDP/người hoặc GDP/giờ lao động, thứ hai là gián tiếp cho biết vì thiếu tiền, giống như tớ nói. Nhưng bài này lại yếu ở cái chỗ là lặp lại luận điệu của các đồng chí khác khi chỉ nhìn vào bề nổi của sự việc, chẳng hạn NSLD thấp thì phải nâng cao đào tạo, giáo dục, cải thiện công nghệ, cải thiện môi trường vĩ mô v.v... mà không nhận thức được rằng đây là những điều ai cũng biết, ai cũng nói được (chính là những biện pháp tăng GDP growth mà tớ đã chỉ nói qua, do không muốn lặp lại như con vẹt), vì chỉ là trên bề mặt, nhưng quan trọng là để làm được thì lại không dễ (đã "đổi mới" 30 năm rồi) vì rốt cuộc, như tớ nói gọn, tại mấy chữ NGHÈO, NGU, SỐ PHẬN ĐEN ĐỦI. 

Và nhân tiện có bài này nên tớ phải một lần nữa khuyến cáo các đồng chí vẫn ấm ức, vẫn còn muốn phang tớ, nhất là về chuyện NSLD thì phải nghĩ lại 2 lần trước khi phang nhé!

Cho phá sản ngân hàng, mức chi trả bảo hiểm tiền gửi sẽ ra sao? (Bài đăng trên Cafef, 18/9)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/cho-pha-san-ngan-hang-muc-chi-tra-bao-hiem-tien-gui-se-ra-sao-201409180913447178ca34.chn

Bảo hiểm tiền gửi là một công cụ được triển khai ở nhiều nước nhằm bảo vệ người gửi tiền vào ngân hàng, một phần hay toàn bộ, trước những thiệt hại do ngân hàng không có khả năng hoàn trả khoản tiền gửi của khách khi đến hạn. Hệ thống bảo hiểm tiền gửi là một bộ phận cấu thành của cơ chế bảo vệ hệ thống tài chính nhằm đảm bảo sự ổn định cho hệ thống tài chính đó.

Với bảo hiểm tiền gửi, người gửi tiền yên tâm hơn khi phải đối mặt với tình huống ngân hàng mà họ gửi tiền vì một lý do nào đó (có thể) mất khả năng thanh toán. Nếu không có bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp này thì người gửi tiền sẽ đổ xô đến ngân hàng có vấn đề để mong rút được tiền của mình về trước những người khác, trước khi ngân hàng tuyên bố mất khả năng chi trả. 

Làn sóng rút tiền gửi này nhiều khi mới chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng đó và kéo theo nhiều ngân hàng khác trong hệ thống. Khi được bảo hiểm cho khoản tiền gửi của mình, người gửi tiền biết rằng dù ngân hàng có phải đóng cửa thì tiền của họ sẽ không bị mất (hoàn toàn) vì đã có quỹ bảo hiểm tiền gửi chi trả (một phần hoặc toàn bộ) nên họ không phải tranh nhau rút tiền khỏi các ngân hàng, làm hạn chế khả năng sụp đổ mang tính hệ thống của các ngân hàng.

Như vậy, về bản chất, mức chi trả bảo hiểm cho tiền gửi vào ngân hàng càng cao thì người gửi tiền càng yên tâm với ngân hàng mình gửi tiền và điều này sẽ càng hạn chế được khả năng đổ vỡ có tính hệ thống của các ngân hàng.

Mặt trái của bảo hiểm tiền gửi, nhất là bảo hiểm toàn bộ tiền gửi, là nó tạo ra một rủi ro đạo đức theo đó cả ngân hàng lẫn người gửi tiền đều chạy theo lợi nhuận mà bỏ qua rủi ro. Nếu không có bảo hiểm tiền gửi thì các ngân hàng phải nỗ lực cạnh tranh vừa phải nâng cao chất lượng dịch vụ và mức độ an toàn của mình, vừa phải đưa ra một mức lãi suất gửi tiền đủ hấp dẫn để thu hút tiền gửi. Nếu có bảo hiểm tiền gửi thì các ngân hàng có xu hướng cho vay và đầu tư rủi ro hơn vì người gửi tiền lúc đó không quan tâm đến tính an toàn của ngân hàng đó nữa và không phải lo chuyển sang ngân hàng khác để gửi cho an toàn hơn. Về phía người gửi tiền, khi được bảo hiểm thì họ không quan tâm đến việc ngân hàng nào an toàn hơn ngân hàng nào, mà chỉ chú trọng chọn ngân hàng nào chào lãi suất tiền gửi cao nhất.

Trên thế giới, mức chi trả bảo hiểm tiền gửi tối đa biến thiên trong khoảng rất rộng, từ đơn vị nghìn USD đến hàng trăm nghìn USD, hoặc toàn bộ khoản tiền gửi. Nhìn chung là không có một chuẩn mực chung nào được đặt ra như có một số người ở Việt Nam nói, chẳng hạn bằng bao nhiêu lần lương tối thiểu. Đôi khi một nước hay khu vực nào đó nâng mạnh mức chi trả bảo hiểm đơn giản chỉ vì nước hàng xóm đã nâng mức chi trả bảo hiểm lên cao hơn, tạo ra sự cạnh tranh thu hút tiền gửi của nhà đầu tư nước ngoài (chẳng hạn EU nâng mức bảo hiểm tối thiểu lên 50.000 euro năm 2008 sau khi Ireland nâng mức bảo hiểm tiền gửi lên toàn bộ khoản tiền gửi trong cùng năm).

Xét trường hợp của Việt Nam, hiện chi trả bảo hiểm tiền gửi vẫn chỉ được duy trì ở mức tối đa là 50 triệu đồng, là mức được quy định từ năm 2005. Bản thân Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cũng nhìn nhận rằng quy định mức tối đa 50 triệu đồng như hiện nay không còn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam xét ở các yếu tố như thu nhập GDP bình quân đầu người, tình trạng lạm phát cao, tốc độ tăng trưởng tiền gửi… và chưa bảo vệ được hết quyền lợi của người gửi tiền.

Một trong những sự “không còn phù hợp” rõ nét nhất hiện nay của mức chi trả bảo hiểm là sự “bật đèn xanh” của Thủ tướng cho phép phá sản ngân hàng yếu kém trong phiên họp thường kỳ của chính phủ tháng 8. Nếu như trước đây, một cách ngầm định và cả công khai, việc cho một ngân hàng nào đó phá sản gần như là một điều không tồn tại ở Việt Nam. Như thế, người gửi tiền được hưởng một sự bảo hiểm ngầm định/công khai khác từ phía nhà nước rằng tiền của họ gửi vào ngân hàng không thể mất đi đâu được. 

Do đó, dù với hạn mức chi trả tối đa chỉ là 50 triệu, một con số có thể bị coi là nhỏ nhoi kể cả trong thời gian trước đây, người gửi tiền thực sự hầu như chẳng bao giờ quan tâm hay biết đến sự tồn tại của loại bảo hiểm mà họ được thụ hưởng này.

Nay với sự cho phép, về nguyên tắc, phá sản các ngân hàng yếu kém, rõ ràng mức chi trả
bảo hiểm này trở thành mối bận tâm lớn hơn của nhiều người gửi tiền, nhất là khi có nhiều tin đồn về sức khỏe của một vài ngân hàng nào đó có vấn đề. 

Không rõ là trước hay sau khi Thủ tướng tuyên bố chủ trương cho phá sản ngân hàng yếu kém này, trên website của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, trong mục “Cẩm nang cho người gửi tiền”, có đoạn nói rằng hạn mức chi trả tối đa này “đang được đề nghị nâng lên mức cao hơn để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền, duy trì niềm tin công chúng và tránh gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của tổ chức tín dụng”.

Đến đây thì nảy sinh ra 2 vấn đề liên quan. Thứ nhất, liệu thực sự Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (hay cơ quan chủ quản của nó) có sẵn lòng nâng mức chi trả này lên cao hơn không? Lưu ý rằng mức tính phí bảo hiểm tiền gửi từ trước đến nay được tính theo một công thức cố định, có nghĩa là mức trích nộp bảo hiểm tiền gửi từ các tổ chức tín dụng cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là không đổi cho mỗi khoản tiền gửi. 

Nay nếu Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phải nâng mức chi trả bảo hiểm từ 50 triệu đồng lên, ví dụ, 200 triệu đồng, điều này có nghĩa là Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ thiệt hại đáng kể, và đây là lý do để đặt câu hỏi liệu Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (và cấp trên của họ) có thực sự, có tích cực “đề nghị” nâng mức chi trả bảo hiểm lên cao hơn không. Bởi vậy, có thể nghi ngờ lời “đề nghị” này được đưa ra, được nghe thấy từ nhiều năm nay rồi nhưng đâu vẫn vào đó.

Vấn đề thứ hai là việc cho phá sản các ngân hàng có thực sự sẽ diễn ra ở Việt Nam hay không, mặc dù người đứng đầu chính phủ đã tuyên bố như vậy. Như đã được chỉ ra trong Báo cáo chuyên biệt về tình hình hệ thống tài chính Việt Nam do WB và IMF công bố ngày 29/8, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam – một trong những nguồn lực chính xử lý hậu quả phá sản ngân hàng – hiện có nhiều hạn chế trong hoạt động, và tình hình tài chính của nó cũng không đủ để hỗ trợ 2 tổ chức tín dụng quy mô trung bình. Đó là chưa kể cách thức đầu tư vốn của cơ quan này có nhiều rủi ro nghiêm trọng dẫn đến khả năng mất vốn.

Từ 2 vấn đề trên, có thể hình dung mọi việc vẫn sẽ không có gì thay đổi đáng kể ít nhất trong một thời gian tương đối nữa, và chuyện bảo hiểm tiền gửi vẫn sẽ chỉ là một chuyện “không thành vấn đề” ở Việt Nam trong thời gian tới đây, chí ít vì sẽ chẳng có ngân hàng nào bị/được phá sản.

Tuesday, 16 September 2014

Cần bỏ tinh thần "đặc thù"! (Bài đăng trên Cafef, 16/9)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/can-bo-tinh-than-dac-thu-201409160733351406ca34.chn

Chương trình đánh giá khu vực tài chính (FSAP) do WB và IMF thực hiện tại Việt Nam theo yêu cầu của chính phủ Việt Nam từ năm 2012. FSAP đã được phía Việt Nam xác định là một cuộc kiểm điểm sâu sắc và toàn diện về những mặt được và chưa được trong hoạt động của khu vực tài chính, bao gồm cả công tác quản lý nhà nước cho giai đoạn từ trước tháng 12/2012.
Theo đó, đoàn công tác của chương trình này đã hoàn thành Báo cáo đánh giá khu vực tài chính (FSA) và các báo cáo liên quan về tuân thủ nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế trong thanh tra giám sát ngân hàng, bảo hiểm, thị trường vốn và hạ tầng thị trường tài chính.

Với tư cách là cơ quan đầu mối triển khai FSAP, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ra thông cáo báo chí về kết quả thực hiện FSAP và công bố FSA. Trong thông cáo báo chí về kết quả thực hiện FSAP, NHNN đã tóm tắt những phát hiện chính của FSA, thừa nhận tính xác đáng và giá trị của nhiều nhận định và khuyến nghị trong FSA, nhưng đồng thời cũng nêu ra một số “bất đồng” quan điểm với FSA liên quan đến những vấn đề như tỷ lệ nợ xấu, sở hữu chéo, can thiệp của chính quyền trung ương và địa phương trong hoạt động cho vay của ngân hàng, công tác thanh tra giám sát ngân hàng v.v...

NHNN cho rằng những đánh giá của đoàn công tác FSAP “chưa thật sự phản ánh chính xác hoạt động của thị trường tài chính Việt Nam, một phần do các yếu tố rất đặc thù về mặt thể chế, lịch sử và cơ chế vận hành thị trường tài chính Việt Nam, và một phần do các nỗ lực cải cách của chính phủ chưa được ghi nhận một cách thỏa đáng vì thời điểm diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế trong nước đang gặp rất nhiều khó khăn, các biện pháp cải cách của chính phủ lại mới bắt đầu đi vào triển khai, hoặc hiệu quả của các cơ chế và biện pháp đang áp dụng tại Việt Nam cần thời gian để chứng minh tính hiệu quả khi có sự khác biệt với thực tiễn quốc tế. Bên cạnh đó, việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế để đánh giá trong bối cảnh thị trường tài chính Việt Nam mới phát triển ở giai đoạn ban đầu cũng có thể dẫn đến một số nhận định có sự khác biệt về quan điểm”.

Khách quan mà nói, FSA là một báo cáo đúng mực, ngắn gọn nhưng bao phủ khá toàn diện và xác đáng các vấn đề kinh tế vĩ mô liên quan đến hệ thống tài chính của Việt Nam. Cũng như đã được thừa nhận bởi NHNN, FSAP hoàn thành các FSA trên cơ sở các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, chứ không có bất cứ một sự thỏa hiệp nào với các nguyên tắc và chuẩn mực “địa phương”, nên đương nhiên FSA cho Việt Nam sẽ chứa đựng nhiều phát hiện và chi tiết “bất đồng” với quan điểm của phía Việt Nam, vốn xuất phát từ những nguyên tắc và chuẩn mực Việt Nam.

Xuất phát từ việc hiểu rõ bản chất của FSA như vậy, có thể thấy việc viện dẫn ra những yếu tố như “đặc thù”, “hoàn cảnh khó khăn”, “mới bắt đầu đi vào triển khai”, “cần thời gian để chứng minh tính hiệu quả”, “mới phát triển ở giai đoạn ban đầu” v.v... chỉ là những lý do bao biện không xác đáng cho những yếu kém và bất cập trong quản lý nhà nước về hệ thống tài chính của các cơ quan hữu quan Việt Nam.

Câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao Việt Nam lại có những phản ứng khá kỳ lạ như vậy, khi đã chủ động yêu cầu WB và IMF thành lập FSAP tại Việt Nam để cho ra đời FSA về hệ thống tài chính Việt Nam, để rồi lại lên tiếng biện bạch theo kiểu FSA “nói vậy mà không phải vậy”?

Câu trả lời có thể nằm việc phía Việt Nam ban đầu có lẽ cho rằng FSAP sẽ chỉ mang đến những lợi ích tiềm năng như giúp Việt Nam phân tích, đánh giá tổng quát, hiện trạng, mức độ ổn định và phát triển của hệ thống tài chính, đồng thời có những kiến nghị nhằm tăng cường sự đóng góp của ngành tài chính vào tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo v.v... một cách chung chung như vẫn thường thấy, mà không chứa đựng những phát hiện, vốn có thể coi là những chỉ trích “nhạy cảm” hoặc làm phương hại đến một cơ quan chủ quản nói riêng nào đó và cho cả thể chế nói chung ở Việt Nam như thực tế đã xảy ra.

Quay trở lại với những lý do biện bạch cho sự “bất đồng” nói trên trong Thông cáo báo chí của NHNN, có thể thấy hầu hết những điểm được chỉ ra bởi FSA, cụ thể là tỷ lệ nợ xấu, sở hữu chéo, can thiệp của chính quyền trung ương và địa phương trong hoạt động cho vay của ngân hàng, công tác thanh tra giám sát ngân hàng, là những điểm tồn tại lớn nhất, có khả năng gây nguy hại nhất đến sự ổn định và phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam.
Cụ thể hơn, tỷ lệ nợ xấu được ước tính một cách thận trọng đến cuối năm 2012, theo FSA, đã là 12% tổng dư nợ, một con số vượt xa mọi công bố của NHNN. Tất nhiên trước đó và sau này, một số tổ chức quốc tế cũng đưa ra những ước tính con số tỷ lệ nợ xấu cao như và thậm chí còn hơn thế, nhưng phía Việt Nam luôn phủ định chúng, cho rằng đó chỉ là những ước tính thiếu thông tin và không có cơ sở. Với một báo cáo uy tín và khách quan như của FSAP, quả thật là con số 12% này làm cho nhiều người ở Việt Nam trở nên “khó ăn khó nói”.

Vấn đề can thiệp của chính quyền trung ương và địa phương trong các hoạt động cho vay của ngân hàng, đặc biệt là cho vay các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thân hữu là vấn đề không hề mới mẻ, nhưng ít khi được đề cập đến một cách chính thức vì tính chất “nhạy cảm” của nó. Và phải đến khi được vạch ra trong FSA thì người ta mới có dịp được gọi đúng tên của căn bệnh kinh niên này trong hệ thống tài chính Việt Nam một cách công khai trong sự không thoải mái của những người trong cuộc.

Cũng tương tự như vậy, các “bất đồng” trong đánh giá sở hữu chéo và công tác thanh tra giám sát ngân hàng cũng là những điểm không mấy dễ chịu cho NHNN với tư cách là cơ quan trực tiếp liên quan và chịu trách nhiệm về những vấn đề này.

Tóm lại, với những chương trình có mục đích và tôn chỉ hỗ trợ và giúp đỡ như FSAP, điều cần có từ phía Việt Nam là một tinh thần cầu thị, nhìn thẳng vào những yếu kém (được vạch ra) của mình để khắc phục và hoàn thiện, chứ không phải là thái độ bao biện, khỏa lấp, viện cớ “đặc thù”... để lảng tránh trách nhiệm.

Monday, 15 September 2014

Bàn thêm về chuyện "Tổng cầu yếu" (Bài đăng trên Cafef, 16/9, bản gốc)

Bài này tớ phang đồng chí Long, chắc là người cũng từng xuất hiện trong những cuộc tranh luận ở blog này. Nếu đúng thì đồng chí Long lên tiếng xác nhận giúp tớ một cái nhé!

Bản trên báo:
http://cafef.vn/kinh-te-vi-mo-dau-tu/ban-them-ve-chuyen-tong-cau-yeu-201409142157107674ca33.chn

----------------------------------------------------
Tranh luận về chuyện liệu tổng cầu yếu hay bình thường vẫn chưa ngã ngũ, với đa phần ý kiến cho rằng tổng cầu yếu. Tác giả Phạm Ngọc Long (tác giả) trong một bài viết cùng chủ đề mới đây nhất trên Cafef đã nêu thêm một số luận điểm để củng cố cho lập luận tổng cầu yếu của mình. Trong bài này, chúng ta sẽ tiếp tục phân tích liệu những luận điểm này có thích hợp hay không.
Luận điểm thứ nhất là chuyện số liệu về GDP, CPI, tỷ giá hối đoái, thặng dư thương mại, dự trữ ngoại tệ v.v... của Việt Nam (do Việt Nam công bố) có nhiều sai lệch, không đáng tin cậy (so với số liệu của các tổ chức quốc tế) nên không thể dựa vào, chẳng hạn, con số tăng trưởng GDP 5,4% trong nửa đầu năm nay, cao hơn nhiều nước khác, là "điểm sáng kinh tế" và là chỉ biểu cho "tổng cầu không yếu".

Có thể nói ngay rằng lập luận này là không "trúng" vấn đề. Nếu nghi ngờ về chất lượng con số thống kê Việt Nam thì trước tiên phải làm rõ xem chúng có độ xác thực thế nào. Nếu đã không phủ định được tính xác thực của con số thống kê Việt Nam thì phải chấp nhận sử dụng chúng. Nếu không, ngay bản thân phái "tổng cầu yếu" cũng không thể đưa ra bất kỳ số liệu nào khác (không do phía cơ quan hữu quan Việt Nam cung cấp) làm căn cứ để lập luận rằng tổng cầu quả thực là yếu ở Việt Nam, ngoài những cảm nhận định tính, mơ hồ, chủ quan.
Luận đểm thứ hai là chuyện "sức mua yếu", coi đó là căn cứ để cho rằng "tổng cầu yếu". Một mặt, tác giả trên thừa nhận rằng lạm phát (CPI) tăng thấp không có nghĩa rằng "tổng cầu yếu" và phải tăng giá để kích cầu lên. Mặt khác, tác giả lại mặc nhiên cho rằng hiện tổng cầu vẫn yếu, là vấn đề cần chứng minh, và là chủ đề chinh của cuộc tranh luận hiện nay (tổng cầu yếu hay không) và chuyển luôn sang vấn đề khác là liệu có "kích" được tổng cầu không khi mà "sức mua thì không hoặc rất yếu".

Bên cạnh đó, chưa nói chuyện sai về ngữ nghĩa khi nói "sức mua thì không" (vì dù ít hay nhiều thì vẫn có sức mua cho bất kỳ hàng hóa dịch vụ nào đó, chứ sức mua không thể về 0), tác giả cũng không thể đưa ra một chỉ biểu định lượng nào cho thấy sức mua rất yếu, ngoài những dẫn chứng định tính, mơ hồ và chủ quan như sản xuất cơ bản vẫn trì trệ (lưu ý thêm rằng sản xuất không đại diện cho tổng cầu), "đầu ra" của nền kinh tế vẫn khó khăn ("đầu ra" nào? Khó khăn như thế nào? Đầu ra nhiều quá thì tiêu thụ ở đâu?...), lao động và việc làm vẫn là điều nhức nhối (cụ thể như thế nào? Tình trạng các nhà máy không tuyển đủ công nhân có phải là điều nhức nhối mà tác giả muốn nói?...). Tác giả cũng nêu thêm rằng nhiều ngành như du lịch, thời trang, bất động sản, ẩm thực... ế ấm, hạ giá mà tiêu thụ vẫn khó khăn. Nhưng không nói thì chắc mọi người cũng biết rằng ở những ngành này, cung đã (từng) tăng nhanh chóng mặt mà không cầu nào có thể hấp thu được, đặc biệt ở mức giá trên trời như trong bất động sản. Ngoài ra, cứ cho là cầu (hoặc "sức mua" như tác giả lập luận) là yếu trong những ngành này, nhưng còn cầu ở những ngành khác thì sao? Nếu chúng tăng lên với tốc độ mạnh hơn thì chúng vẫn hoàn toàn có thể "vực" tổng cầu lên được cơ mà?
Luận điểm thứ ba là về tính xác thực của các con số như PMI và niềm tin người tiêu dùng do các tổ chức khác trong và ngoài nước công bố. Bên trên, như đã nêu, tác giả đặt hoài nghi vào tính xác thực của các con số do (chính phủ) Việt Nam cung cấp như CPI, GDP, tỷ giá, dự trữ ngoại hối... và trong phân này thì tác giả hoài nghi luôn cả những số liệu do các tổ chức phi chính phủ cung cấp. Vậy thì tác giả dùng số liệu gì, của ai để dùng làm căn cứ cho lập luận rằng cầu yếu, sức mua yếu của mình, và tính xác thực cũng như độ tin cậy của những số liệu này như thế nào?

Tác giả có nêu con số tỷ lệ thất nghiệp "quá đẹp" như là một bằng chứng cho việc số liệu không xác thực, nhưng chính tác giả cũng không nêu ra được bằng chứng nào khác để phủ nhận con số đẹp này, ngoài những nhận định chung chung rằng doanh nghiệp vẫn phá sản, giải thể, thất nghiệp vẫn gia tăng đáng lo ngại... Cần lưu ý thêm rằng có thể số doanh nghiệp giải thể, phá sản, ngừng hoạt động lớn hơn số doanh nghiệp mới ra đời, nhưng tự thân điều này không cho biết rằng nền kinh tế khó khăn hơn và thất nghiệp cao hơn, đơn giản vì rất có thể nền kinh tế đang (tự) tái cơ cấu, những doanh nghiệp mới ra đời là những doanh nghiệp lớn hơn về quy mô lao động (thâm dụng lao động nhiều hơn) nên thất nghiệp không nhất thiết tăng lên, và/hoặc các doanh nghiệp mới này là những doanh nghiệp có hàm lượng giá trị gia tăng cao hơn, đóng góp cho GDP nhiều hơn, nên tăng trưởng kinh tế sẽ vì thế mà nhanh hơn. Nếu muốn chứng minh không phải vậy thì tác giả cần đưa ra những số liệu cụ thể để cho thấy nền kinh tế đang ở tình trạng suy thoái, khó khăn, chứ không thể chỉ nói một cách chung chung, cảm tính được.
Luận điểm thứ tư dựa trên mức tồn kho lớn và được quy kết không phải là do cung vượt cầu mà do tổng cầu yếu quá. Đáng tiếc là để chứng minh luận điểm này thì tác giả lại dựa vào 2 căn cứ đó là số doanh nghiệp thành lập mới vẫn nhỏ hơn số doanh nghiệp dời bỏ thị trường, và "kích cầu" sai địa chỉ gây hại cho nền kinh tế. Về chuyện thành lập doanh nghiệp mới thì như đã nói ở trên, điều này tự thân nó không nói lên tổng cầu yếu hay khỏe. Còn chuyện "kích cầu" sai địa chỉ gây hại cho nền kinh tế mà tác giả lấy ví dụ qua chuyện kích cầu vào các mặt hàng tối thiết yếu và độc quyền (khó có thể lỗ) thì cũng chẳng cho biết thêm gì về tổng cầu quá yếu, nếu không muốn nói ngược lại, vì về nguyên tắc, khi cầu của một nhóm sản phẩm nào đó tăng lên trong khi cầu các nhóm sản phẩm khác giữ nguyên thì tổng cầu phải tăng lên, chứ không thể giảm đi được.

Luận điểm thứ năm là luận điểm mà tác giả đã chỉ đúng một nửa khi nói rằng không nên tán dương quá mức CPI giảm là tốt, là biểu hiện đáng mừng, để rồi tìm cách tăng giá liên tục dưới danh nghĩa "kích cầu" nền kinh tế, gây khó khăn cho người lao động. Đúng vì không được tìm cách tăng giá liên tục làm tăng CPI (lạm phát), gây khó khăn cho người lao động. Sai vì nói như trên là tự mâu thuẫn khi một mặt nói là không được để CPI tăng gây khó khăn cho người lao động, mặt khác lại phủ định tính tích cực của CPI tăng thấp. Và không ai có lý trí lại đề xuất tăng CPI để "kích cầu" cả, kể cả người viết bài này, như tác giả phê phán.
Cuối cùng, trong phần kết luận, tác giả mặc nhiên cho rằng tổng cầu đang rất yếu mặc dù tác giả vẫn chưa chứng minh được tại sao lại kết luận vậy. Đi xa hơn, tác giả đặt vấn đề tại sao tổng cầu yếu mà kích thế kích nữa vẫn không lên nổi. Điều này cũng có thể trả lời một cách rất đơn giản rằng vì tổng cầu thực tế vẫn tăng khả quan, không quá yếu như tác giả nhìn nhận, và bởi vậy có kích thế chứ kích nữa thì tổng cầu cũng không thể tăng mạnh hơn được nhiều khi nó đã gần đến mức bão hòa (tiềm năng)!

Có nên hạ lãi suất ngay? (Bài đăng trên Cafef, 15/9)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/co-nen-ha-lai-suat-ngay-2014091507493345014ca34.chn

Với tình hình lạm phát đang ở mức thấp trong nhiều năm và tăng trưởng tín dụng đang “đì đẹt”, kỳ vọng về một đợt giảm lãi suất bởi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ngay trong thời gian tới ngày càng tăng. Câu hỏi được đặt ra ở đây là NHNN có nên hạ lãi suất ngay không?

Xét về căn cứ để hạ lãi suất, nếu chỉ đơn thuần dựa vào mức lạm phát để quyết định có hạ lãi suất hay không là khá bất cẩn. Cũng sẽ có người nói rằng NHNN còn căn cứ cả vào tốc độ tăng trưởng tín dụng, mà theo họ hiện đang yếu vì phản ánh tổng cầu yếu, để làm cơ sở xem xét hạ lãi suất.

Với lạm phát, hiện đang ở mức được cho là thấp (tăng 4,3% vào tháng 8/2014 so với tháng 8/2013) và được dự đoán chỉ khoảng 5% cho cả năm nay, nên nhiều người cho rằng NHNN có hạ lãi suất điều hành và trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn thêm nữa, chẳng hạn 50 điểm (còn 5,5%/năm cho tiền gửi ngắn hạn từ 1 đến 6 tháng) thì người gửi tiền vẫn có lãi (vẫn được hưởng lãi suất thực dương), và, do đó, không phải e ngại một đợt rút vốn mới của người có tiền gửi tiết kiệm.

Nhưng điều cần lưu ý ở đây là lạm phát tuy có thể là thấp một cách tương đối so với các năm trước, đây chỉ là mức lạm phát ở thời hiện tại. Người có tiền gửi đa phần sẽ tính toán (hoặc phỏng đoán) mức lạm phát cho thời gian tới (lạm phát ở thời tương lai) để làm căn cứ cho quyết định gửi tiền của mình.
Chẳng hạn, nếu họ cũng kỳ vọng, cũng tin rằng lạm phát sau 6 tháng nữa cũng sẽ chỉ là 5%/năm thì lúc đó mới có thể nói rằng lãi suất tiền gửi được hưởng nếu bây giờ gửi tiền có kỳ hạn 6 tháng sẽ là thực dương sau 6 tháng nữa. Nếu nhiều người không kỳ vọng như vậy thì việc lạm phát có giảm thấp tại thời điểm hiện tại và cho cả các tháng còn lại của năm 2014 thì cũng không có nghĩa là việc giảm lãi suất của NHNN (giả sử ngay trong tháng này) là xác đáng.

Thêm một yếu tố nữa có thể làm cho mọi ước tính về lạm phát (chẳng hạn trong những tháng còn lại của năm nay) không còn chính xác nữa. Đó là sự tác động qua lại, ở trạng thái động, giữa việc hạ lãi suất với kỳ vọng lạm phát trong tương lai. Tại thời điểm này, nếu cứ căn cứ vào những yếu tố hiện thời như lạm phát đang ở mức thấp và tăng trưởng tín dụng (và đằng sau đó là tăng cung tiền) có thể đang ở mức khiêm tốn so với các năm trước thì có nhiều người tin rằng lạm phát trong thời gian tới (những tháng còn lại của năm 2014) sẽ chỉ ở mức thấp như hiện tại.
 
Nhưng mọi việc sẽ có thể khác hoàn toàn nếu, ví dụ, ngay trong tháng 9 này NHNN quyết định hạ các loại lãi suất. Việc hạ lãi suất này, đi kèm là việc tăng (mạnh) cung tiền, có thể sẽ châm ngòi cho một đợt kỳ vọng mới rằng lạm phát sẽ tăng lên trong tương lai gần, đồng thời làm cho mức lãi suất tiền gửi hiện tại trở nên thực âm khi khoản tiết kiệm đến hạn thanh toán trong tương lai. Trong bối cảnh này, tiền gửi sẽ không tăng mạnh như kỳ vọng của NHNN, buộc NHNN phải bơm thêm tiền vào hệ thống và hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại nhằm đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng. Kết cục là tạo ra một vòng luẩn quẩn ở đó lạm phát có xu hướng tăng và NHNN phải tăng tốc độ bơm tiền.

Như vậy, căn cứ cho việc hạ lãi suất không thể đơn thuần chỉ là mức lạm phát hiện thời và dự đoán lạm phát tương lai trong trạng thái tĩnh như cách đang làm hiện nay. Ngay cả khi có thêm căn cứ tăng trưởng tín dụng thấp vì được quy cho là bởi tổng cầu yếu, bản chất sự việc cũng không thay đổi.
Như đã được nêu trong bài “Không nên chạy theo tăng trưởng tín dụng!” và bài “Đằng sau đợt hạ lãi suất tiền gửi gần đây”, cái giá của việc chạy theo một con số tăng trưởng tín dụng “vô hồn” nào đó, chẳng hạn 12-14% năm nay chỉ để đổi lấy 1 điểm phần trăm tăng trưởng kinh tế, có thể sẽ là cung tiền tăng mạnh, làm nền cho lạm phát cao quay trở lại. Đó là chưa kể đến quan niệm sai lầm khi cho rằng tổng cầu đang yếu, cần phải kích cầu (thông qua hạ lãi suất để tăng tín dụng), như đã được phân tích trong bài “Điểm sáng của nền kinh tế”.

Nói cách khác, cần căn cứ vào một tập hợp nhiều yếu tố bao gồm tình hình tăng trưởng GDP (tức tổng cầu) hiện tại, giãn cách giữa lãi suất hiện tại và lạm phát, tốc độ tăng cung tiền ở mức hiện tại và mức độ phản ứng của tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP với tăng cung tiền v.v... để quyết định có giảm lãi suất hay không và giảm bao nhiêu.

Trên thực tế thời gian qua, GDP vẫn tăng trưởng khá khả quan (5,4% trong nửa đầu năm, và có khả năng đạt 5,6-5,7%, tức không khác mấy so với mục tiêu 5,8% cho năm 2014, kể cả khi không có những biện pháp hỗ trợ tổng cầu có hiệu quả như báo cáo của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia), cung tiền M2 cũng đã tăng đều với tốc độ hơn 1%/tháng so với tháng 12/2013 và tăng 8,7% vào tháng 8/2014 so với tháng 12/2013, một tốc độ không thể coi là chậm. Trong khi đó tăng trưởng tín dụng chỉ tăng 4,5% trong tháng 8/2014 so với tháng 12/2013, cho thấy một mức độ tương tác và phản ứng khá yếu với tốc độ tăng cung tiền và/hoặc với tăng trưởng GDP. Ngược lại, giãn cách giữa lạm phát và lãi suất ngày càng thu hẹp lại do hệ thống ngân hàng đang dư thừa thanh khoản, gây tâm lý co cụm phòng thủ ngày càng tăng của người có tiền gửi.

Xét trong bối cảnh này, việc tăng cung tiền mạnh hơn nhằm hạ lãi suất thêm và kích thích tăng trưởng tín dụng chỉ để thúc đẩy tăng trưởng GDP thêm 0,1-0,2 điểm phần trăm so với mục tiêu 5,8% là điều không mấy thuyết phục, đặc biệt khi xét đến hậu quả của nó lên lạm phát và ổn định vĩ mô. Nhìn từ một góc độ khác, việc hạ lãi suất chỉ nên được xem xét khi lạm phát đã giảm xuống mức thấp hơn nữa và có xu hướng ổn định, và nền kinh tế thật sự đang trải qua sự trì trệ trong đầu tư và tiêu dùng, vốn không phải là đúng ở Việt Nam hiện nay.

Saturday, 13 September 2014

Nỗi hoài nghi về GDP ở Việt Nam (viết lại)

Về chủ đề này, tớ đã post trong một entry ở đây
http://phan-minh-ngoc.blogspot.sg/2014/08/noi-hoai-nghi-ve-gdp-o-viet-nam-bai-ang.html
vì tớ tưởng Tuổi trẻ cuối tuần đăng vào ngày 23/8 như họ đã lên lịch. Nhưng rốt cuộc họ lại hoãn, và yêu cầu tớ viết thêm cho đủ dài từ 1.800 đến 2.000 từ. Thế là tớ đã viết lại như dưới đây, và bài được dự định đăng hôm qua, 13/9. Nhưng rồi họ thấy có mấy trang mạng sử dụng entry trên (tớ quên không gỡ xuống) nên quyết định không đăng nữa! Đại loại chuyện nó dài dòng như vậy, và tớ thấy cần thiết phải giải thích một chút không thì có ai đó tìm đọc Tuổi trẻ cuối tuân hôm 23/8 và không thấy bài của tớ thì lại nói tớ bốc phét.

---------------------------------
Trong năm nay nhiều lần Tổng cục Thống kê (TCTK) đã phải đăng đàn giải thích tính khả tín của chỉ số GDP mà họ tính toán và công bố hàng quý, hàng năm trước nghi vấn của dư luận về chỉ số này.

Mới đây nhất, TS Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng TCTK cũng một lần nữa phủ nhận nỗi hoài nghi về chỉ tiêu GDP khi cho rằng TCTK đã áp dụng các khái niệm, nguyên tắc, nguồn thông tin và phương pháp tính GDP theo đúng quy định trong hệ thống tài khoản quốc gia của thống kê Liên hợp quốc. Ông cũng cho biết thêm rằng trước đây những năm 90, hàng năm Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đến Việt Nam kiểm tra nguồn thông tin và phương pháp tính chỉ tiêu GDP do TCTK thực hiện và các tổ chức này đều khẳng định phương pháp tính của thống kê Việt Nam theo đúng phương pháp của thống kê Liên hợp quốc. Hiện nay họ không đặt vấn đề kiểm tra đối với thống kê Việt Nam mà hoàn toàn tin tưởng, sử dụng số liệu GDP do TCTK tính toán và công bố.

Khách quan mà nói, lý giải như trên vẫn sẽ là chưa đủ để thuyết phục dư luận. Việc có phương pháp và quy trình đúng, và “làm đúng quy trình” cũng không luôn đảm bảo cho kết quả đúng, như kỳ vọng! Có lẽ dư luận hoài nghi về tính chính xác trong tính toán GDP của TCTK không phải xuất phát chủ yếu từ sự hoài nghi vào phương pháp và quy trình tính toán mà TCTK đang sử dụng hiện nay. Họ hoài nghi về khả năng đã có sự sai lệch hay “bẻ cong” số liệu vì một số lý do khách quan hoặc chủ quan nào đó.

Minh họa dễ thấy nhất về chất lượng tính toán GDP là ở con số GDP do các tỉnh tự tính toán, mà TCKT gọi là tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP). Rất thường xuyên là nếu cộng dồn GRDP của tất cả các địa phương trong cả nước thì con số GDP gộp này sẽ lớn hơn nhiều con số GDP cả nước do TCTK công bố, vì nhìn chung tỉnh nào cũng báo cáo một con số GRDP cao hơn con số GDP chung cho cả nước tới một vài điểm phần trăm. Ví dụ, đầu tháng 12/2013, Hà Nội đã báo cáo tốc độ tăng trưởng GDP của thành phố đạt trung bình 8,25% trong năm 2013. Thành phố Hồ Chí Minh còn tự hào hơn khi báo cáo tốc độ tăng trưởng GDP trên địa bàn thành phố lên tới 9,3% năm 2013. Tương tự, cứ điểm qua tất cả các tỉnh thành trong cả nước thì có lẽ không có tỉnh/thành nào đạt tốc độ tăng trưởng GDP trên địa bàn thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước chỉ là 5,42% trong năm 2013 cả!

TCTK đã phải thừa nhận tình trạng này, và quy cho rằng do bệnh thành tích của các địa phương, hoặc do khó khăn khi áp dụng nguyên tắc “đơn vị cơ sở thường trú” (tức là nguyên tắc theo đó mỗi địa phương chỉ được thống kê giá trị thặng dư được tạo ra bởi các đơn vị kinh tế đóng tại địa phương đó), hoặc do vấn đề về số liệu ở cấp doanh nghiệp. Điều đáng nói là ông Lâm cũng khẳng định rằng các địa phương đã áp dụng thống nhất cách tính chỉ tiêu GRDP theo hướng dẫn của TCTK. Nhưng thực tế trên đã cho thấy dù phương pháp và quy trình có đúng mấy thì vẫn kết quả vẫn có thể sai như thường! Thêm nữa, con số tăng trưởng GDP địa phương này do chính Cục thống kê các tỉnh thành trực tiếp đảm trách, chứ không phải là một cơ quan không chuyên nào tập hợp, tính toán và công bố để mà còn có thể đổ lỗi rằng họ không có chuyên môn.

Ngay cả lý do khó khăn khi áp dụng nguyên tắc “đơn vị cơ sở thường trú” mà TCTK viện dẫn ra như nói ở trên, thì chính TCTK lại tự phủ nhận nó, khi cho biết và khẳng định là “đã biên soạn tài liệu hướng dẫn và triển khai tập huấn để áp dụng thống nhất cho tất cả các Cục Thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong thu thập thông tin, biên soạn chỉ tiêu tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP). Vì vậy không thể nói các địa phương tính GRDP mỗi nơi một kiểu”!

Bởi những lý do không thuyết phục nói trên nên có thể suy ngược ra, ngay bản thân con số GDP cả nước do TCTK công bố cũng vẫn có khả năng không chính xác, không bởi vì phương pháp và quy trình sai, mà có thể bởi chất lượng công tác thu thập và xử lý dữ liệu ngay từ địa phương. Ông Lâm cho biết rằng hiện nay, TCTK trực tiếp tính chỉ tiêu GDP của toàn bộ nền kinh tế chứ không dựa trên cơ sở cộng đơn thuần số liệu GRDP của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Như vậy điều này cũng có nghĩa là trước đây TCTK rất có thể đã tính GDP cả nước dựa trên GRDP vốn là cái đã bị bóp méo (hoặc ít ra thì cũng dựa vào số liệu thu thập bởi các cơ quan thống kê địa phương). Bởi thế, suy diễn về khả năng không chính xác của GDP do TCTK tính toán không phải là không có cơ sở.

Một lý do nữa càng làm tăng tính hoài nghi vào chất lượng tính toán GDP của TCTK đến từ việc TCTK hồi năm ngoái điều chỉnh tăng quy mô giá trị tăng thêm của hoạt động ngân hàng và dịch vụ nhà ở tự có của dân cư. Câu hỏi đặt ra là nếu đúng như TCTK nói, rằng đã áp dụng thống nhất khái niệm, nội dung, phương pháp tính của Liên hợp quốc để biên soạn số liệu GDP, thì tại sao TCTK lại phải “điều chỉnh” như vậy?

TCTK lúc đó có lý giải rằng trong quá trình điều tra thu thập thông tin, xử lý, biên soạn và phân tích số liệu GDP từ phương pháp sản xuất và phương pháp sử dụng, họ nhận thấy hoạt động ngân hàng và dịch vụ nhà tự có tự ở của dân cư chưa được phản ánh đầy đủ trong GDP. Điều này có nghĩa là mặc dù đã có quy trình và “làm đúng quy trình” nhưng từ trước đến năm 2012 hóa ra TCTK vẫn tính sai GDP (vì trước đó họ đã chưa “nhận thấy” và, do đó, “chưa phản ánh đầy đủ” các hoạt động này trong GDP)!

Có một khía cạnh khác về tính bất thường của con số GDP ở Việt Nam mà không mấy người để ý. Đó là chuyện Cục thống kê các tỉnh, thành và TCTK thường công bố GDP trên địa bàn tỉnh, thành và cả nước vào tháng cuối của hàng quý, hàng năm. Nếu cứ chiểu theo lời khẳng định chắc nịch của TCTK về chuyện họ làm đúng quy trình và quy định thống kê của Liên hợp quốc, nói nôm na tức là theo chuẩn mực quốc tế, trong công tác thống kê GDP ở Việt Nam, thì TCTK sẽ lý giải ra sao khi mà thông thường, theo thông lệ quốc tế, phải sau đúng 1 quý thì các nước mới công bố tăng trưởng GDP của quý trước đó (chẳng hạn, tăng trưởng GDP trong quý 1, từ tháng 1 đến tháng 3, sẽ được công bố vào khoảng tháng 6 hàng năm)? Có lẽ chỉ có Việt Nam là “độc đáo” khi công bố tăng trưởng GDP của mỗi quý ngay vào tháng cuối của quý đó (còn GDP của cả năm thì công bố ngay vào tháng 12 của năm đó). Đã thế, các con số chỉnh sửa sau này, nếu có, hầu như không chênh lệch là bao so với con số đã công bố trước đó. Tự bản thân điều này đã cho thấy hoặc TCTK quá giỏi (so với tiêu chuẩn quốc tế) vì luôn nắm rõ từng ngõ ngách, từng đơn vị kinh tế trong cả nền kinh tế như biết rõ có bao tiền trong ví của mình, hoặc công tác thống kê ở Việt Nam chỉ là “đại khái”, thậm chí có thể chỉ dựa trên điều tra chọn mẫu, tức lựa chọn ra một số đối tượng nào đó rồi theo dõi trong một thời gian và ngoại suy ra cho cả nền kinh tế. Khả năng nào đúng hơn thì có lẽ ai cũng có thể nhìn ra được.

Và cuối cùng, một lần nữa TCTK gián tiếp thừa nhận vấn đề chất lượng tính toán GDP của mình khi trả lời câu hỏi làm gì để nâng cao chất lượng các chỉ tiêu thống kê. TCTK cho biết sẽ nâng cao chất lượng thu thập, xử lý, tổng hợp số liệu thống kê; “đề nghị” các đơn vị sản xuất kinh doanh, các đơn vị hành chính sự nghiệp và hộ dân cư cung cấp thông tin đúng thực trạng sản xuất kinh doanh, đảm bảo thời gian; kêu gọi các bộ ngành cần quan tâm hơn nữa đến chia sẻ thông tin cho TCTK; tiếp tục hoàn thiện bộ tổ chức bộ máy thống kê từ Trung ương xuống địa phương; nâng cao năng lực chuyên môn, tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ công chức làm công tác thống kê; và đặc biệt, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để nâng cao chất lượng trong từng công đoạn của hoạt động thống kê v.v...

Với một loạt đầu công việc cần phải làm được liệt kê ra như trên thì có thể suy ra hiện đang có rất nhiều vấn đề trong công tác thống kê nói chung và tính toán GDP nói riêng! Và nói cách gì đi chăng nữa có lẽ cũng sẽ không hiệu quả bằng lời nhận xét thẳng thắn và không thể rõ ràng hơn của người trong cuộc, mà cụ thể ở đây là của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, rằng cách tính tổng sản phẩm quốc nội GDP của Việt Nam không giống bất kỳ quốc gia nào trên thế  giới. Bởi vậy, Thủ tướng chỉ thị TCKT phải sửa đổi cách tính GDP cho phù hợp với thông lệ chung của quốc tế.

Tóm lại, với một bộ máy khổng lồ lan từ trung ương xuống tất cả các tỉnh thành và đã được nhà nước đầu tư không ít tiền của để hoàn thiện và nâng cấp công tác thống kê trong nhiều năm qua, nhưng có thể nói rằng sản phẩm của TCTK chưa đáp ứng được kỳ vọng của đất nước. Vì thế, thay vì đi tìm một cái cớ khách quan nào đó để đổ lỗi cho sự yếu kém của mình hoặc, tệ hơn, cho rằng mình vẫn đúng, điều TCTK cần làm ngay là thẳng thắn nhìn nhận những điểm yếu và sự chưa làm tròn trách nhiệm của mình trong công tác thống kê để thực hiện cho được nhiệm vụ mà Thủ tướng đã thẳng thắn chỉ ra.

Bài trả lời phỏng vấn báo Đại biểu Nhân dân về phát hành trái phiếu chính phủ

 
Phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam

Thời cơ đến, không thể chần chừ hay chờ đợi

08:49 | 13/09/2014
Tại phiên họp thường kỳ tháng 8.2014, Chính phủ đã đồng ý phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ để trả nợ trái phiếu đáo hạn. Trước thông tin về quyết định này, TS PHAN MINH NGỌC, Ngân hàng Sumitomo chi nhánh Singapore cho rằng, nên làm khẩn trương vì thời gian có thể không đợi chúng ta.
 
- Là một chuyên gia về kinh tế, tài chính, Ông có tâm trạng thế nào trước quyết định phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam ra thị trường vốn quốc tế để trả nợ trái phiếu đáo hạn không? 
- Tôi tán thành nếu thực sự đợt phát hành trái phiếu quốc tế lần này chỉ là để đảo nợ như tuyên bố, chứ không phải là dành thêm cho các con tàu chờ hàng là các doanh nghiệp nhà nước nào đó nữa.
 
Lần phát hành này theo tôi là có lợi, đứng từ góc độ chi phí, vì lãi suất vay nợ trên thế giới có xu hướng giảm đi do ngân hàng trung ương các nước đã và đang nới lỏng tiền tệ để kích thích phục hồi và tăng trưởng kinh tế, và đặc biệt là mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam mới được Moody’s (một trong những tổ chức xếp hạng tín dụng uy tín hàng đầu của Mỹ - PV) nâng lên một bậc từ B1 lên B2. Đây là những yếu tố tích cực cho lãi suất trái phiếu của Việt Nam vì với mức lãi suất chung trên thế giới giảm đi thì lãi suất trái phiếu mà nhà đầu tư nước ngoài đòi hỏi Việt Nam phải trả sẽ phải giảm đi tương ứng, cộng thêm với sự cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam thì lãi suất Việt Nam phải trả cho nhà đầu tư nước ngoài càng phải giảm đi so với trước đây.
Nguồn: ITN
- Cũng có quan điểm nói rằng Chính phủ hiện có khoản dự trữ ngoại hối 36 tỷ USD, hoàn toàn đủ sức để chi trả các khoản nợ vay USD khi đến kỳ đáo hạn nên không nhất thiết phải phát hành trái phiếu quốc tế, Ông nghĩ sao?  
- Quan niệm này xuất phát từ sự hiểu sai về bản chất của Quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia, vốn là quỹ dùng cho các sứ mệnh quan trọng hơn nhiều, trong đó có việc can thiệp và bình ổn tỷ giá, hoặc làm bệ đỡ cho những cơn sốc vĩ mô. Quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia không phải là để dành cho một chủ thể kinh tế nào đó vay thương mại, kể cả đó là Chính phủ. Bản thân phần lớn khoản dự trữ ngoại hối này cũng không phải là để nằm nhàn rỗi trong két sắt của NHNN hoặc trong tài khoản của các ngân hàng đại lý của NHNN, mà thường đã được đem đầu tư vào một tài sản tài chính nào đó của nước ngoài có hưởng lãi.
 
Hơn nữa, điều đáng chú ý là cho dù dự trữ ngoại hối đã đạt mức kỷ lục nhưng nếu quy ra số tuần/tháng nhập khẩu thì cũng chỉ quanh quẩn con số 3 tháng nhập khẩu, là mức tối thiểu để được gọi là an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Nói cách khác, con số 36 tỷ USD dự trữ ngoại hối thực ra không phải là, không thể gọi là lớn đến mức dư thừa để có thể vung tay quá trán.
 
- Từ cuối năm ngoái, Chính phủ đã cân nhắc phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế và khẳng định chờ khi điều kiện thuận lợi mới phát hành. Theo Ông điều kiện thuận lợi ở thời điểm hiện tại là những gì?
- Có thể từ thời điểm năm ngoái, Chính phủ đã thấy có sự giảm sút rõ rệt về mặt bằng lãi suất trên thế giới nên đã nảy sinh ý tưởng đi vay để đảo nợ. Và nay điều kiện thuận lợi, có thể hiểu là điều kiện đủ, đã đến. Đó chính là việc Moody’s nâng hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam thêm một bậc nữa. Cần lưu ý rằng đây có thể là một diễn biến nằm ngoài kỳ vọng của Việt Nam, ít nhất là trong năm nay và nằm ngoài kỳ vọng của cả bản thân tôi, vốn cũng phải theo dõi chặt chẽ xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam cho công việc của mình.
 
- Chính phủ đang giao các bộ, ngành chuẩn bị, nghĩa là còn cần một khoảng thời gian nữa mới có thể phát hành trái phiếu quốc tế. Ông có đề xuất gì về thị trường phát hành, đặc biệt là thời gian phát hành khi mà sự thay đổi trên thị trường vốn là điều khó định trước?
- Tôi cho rằng nếu đã quyết định phát hành thì nên làm khẩn trương, chuẩn bị xong lúc nào thì làm lúc đó, chứ không nên chần chừ, băn khoăn, vì thời gian có thể không đợi chúng ta. Bởi nếu Mỹ rút lại các gói nới lỏng tiền tệ (QE) khi nền kinh tế của họ có dấu hiệu phục hồi rõ nét với tỷ lệ thất nghiệp quay trở về ngưỡng coi là lành mạnh thì lúc đó lãi suất có nhiều khả năng sẽ tăng trở lại.
 
Tất nhiên cũng sẽ có khả năng khác là trong khi Mỹ có thể xem xét rút về QE, thì Nhật và EU lại tiếp tục nới lỏng tiền tệ của mình để phục hồi nền kinh tế của mình khi chúng đã rơi vào suy thoái trở lại hoặc chưa thoát được khỏi nỗi lo thiểu phát, buộc Mỹ cũng sẽ phải cân nhắc lại thời điểm rút QE nếu không muốn đánh rơi tính cạnh tranh xuất khẩu vào tay Nhật và EU. Trong bối cảnh này thì lãi suất thế giới sẽ tiếp tục ở mức thấp. Nhưng nhìn chung, lãi suất nếu có tiếp tục ở mức thấp thì cũng sẽ chỉ kéo dài trong khoảng thời gian 2 - 3 năm nữa sau đó sẽ có xu hướng tăng lên, nên tôi vẫn khuyến nghị việc phát hành sớm.
 
Về thị trường phát hành, vì trái phiếu được niêm giá bằng USD nên có lẽ thị trường phát hành có thể sẽ là các trung tâm tài chính chính của thế giới.
 
- Việc phát hành trái phiếu quốc tế lần này, theo Ông là có rủi ro gì không?
Rủi ro sẽ được giảm thiểu bởi ngân hàng bảo lãnh phát hành với sự phối hợp của các tư vấn pháp lý. Tuy nhiên, có một rủi ro đối với Việt Nam tại thời điểm này là việc nâng hạng tín nhiệm quốc gia mới chỉ được 1 trong 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm chính là Moody's thực hiện, Fitch vừa mới dự kiến nâng xếp hạng của Việt Nam thêm 1 bậc, còn S&P thì vẫn chưa thấy động tĩnh gì và cũng chưa thể biết ý đồ của họ sắp tới với Việt Nam như thế nào. Nếu nhà đầu tư tiềm năng đòi hỏi Việt Nam phải lấy được đánh giá tín nhiệm của 2 tổ chức này cho đợt trái phiếu sắp phát hành, và chẳng may mà họ vẫn giữ nguyên xếp hạng như trước đây, vào thời điểm bất ổn vĩ mô còn lớn, hoặc tệ hơn là hạ hạng tín nhiệm đi thì có thể lãi suất đề xuất của trái phiếu chính phủ của Việt Nam không còn ở mức hấp dẫn nữa.
 
- Ông đánh giá như thế nào về sức hấp dẫn của trái phiếu Chính phủ Việt Nam đối với các nhà đầu tư trong lần phát hành này?
- Điều này thì hoàn toàn tùy thuộc vào lãi suất coupon (lãi suất cuống phiếu – PV) Việt Nam chào nhà đầu tư quốc tế. Tức là lãi suất càng cao thì càng hấp dẫn được nhiều người đăng ký mua với khối lượng có thể vượt quá mức chào bán. Bởi vậy, Chính phủ cần phải phối hợp chặt chẽ với ngân hàng bảo lãnh để đưa ra một mức lãi suất tối ưu - tức thấp nhất - để sao cho vừa bán hết khối lượng trái phiếu phát hành, vừa không phải trả cho ngân hàng bảo lãnh phát hành một mức phí bảo lãnh quá cao trong trường hợp không bán hết hàng do lãi suất trở nên quá thấp trên thực tế, không hấp dẫn được đủ số lượng nhà đầu tư tham gia.
 
Như thế, sự hấp dẫn không phải đến từ bản thân việc Việt Nam được nâng hạng tín nhiệm gần đây hay những chuyện tương tự, mà chỉ là việc Việt Nam sẵn sàng trả lãi bao nhiêu cho khoản vay của mình.
 
- Chân thành cám ơn Ông!
Hồng Loan thực hiện

Sunday, 7 September 2014

Điểm sáng của nền kinh tế (Bài đăng trên Cafef, 8/9)

http://cafef.vn/kinh-te-vi-mo-dau-tu/diem-sang-cua-nen-kinh-te-2014090808525237014ca33.chn

Sau những năm mải mê chạy theo tăng trưởng một cách bất cẩn gây ra lạm phát cao đến 2 chữ số với thâm hụt thương mại lớn và áp lực lên tỷ giá, năm nay đã chứng kiến những thành công bước đầu của chính sách kinh tế ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô được đánh dấu bằng mức lạm phát thấp, xuất siêu, nhưng tăng trưởng GDP vẫn có khả năng đạt 5,8%, tức cao hơn so với 5,4% năm 2013, và là mức cao so với khu vực và thế giới.

Như vậy, có thể thấy điểm sáng hiện tại trong nền kinh tế là sự ổn định kinh tế vĩ mô tạo điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng lành mạnh và bền vững trong trung hạn. Trái với suy nghĩ của nhiều người, lạm phát thấp, hiện tại ở mức 1,8% so với tháng 12/2013 (và 4,3% so với tháng 8/2013), hoàn toàn không phản ánh “tổng cầu yếu”.

Có mấy căn cứ để bác bỏ lập luận “tổng cầu yếu” này. Thứ nhất, tổng cầu yếu thường đi kèm với mức lạm phát thấp như ở nhiều nước phát triển, chẳng hạn EU và Nhật, nơi mà tăng trưởng GDP luôn ngấp nghé ở mức 0% hoặc là âm, hoặc có chiều hướng giảm sút dần theo thời gian. Điều ngược lại ở Việt Nam là tăng trưởng GDP đã có xu hướng ổn định và tăng dần lên đến mức khá, thậm chí có thể đạt tới 5,8% năm nay, một mức ít thấy ở nhiều nơi khác trong khu vực và trên thế giới trong năm nay. GDP tăng trưởng khả quan như vậy thì chẳng có lý do gì để nghĩ rằng tổng cầu yếu, trừ khi người ta cho rằng tổng cầu với GDP là 2 thứ khác nhau, hoặc ít ra là không liên hệ với nhau.

Căn cứ thứ hai là mức thất nghiệp. Thường tổng cầu yếu sẽ đi kèm với tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt do nền kinh tế trì trệ, như ở Mỹ và EU. Nhưng ở Việt Nam, theo thông tin của Viện Khoa học Lao động và Xã hội Việt Nam, hiện tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam đã giảm xuống chỉ còn 1,84%, và đây là thời điểm sáng nhất trong thị trường lao động trong 1 năm qua. Và cứ cho là con số tỷ lệ thất nghiệp này là quá đẹp và tỷ lệ thất nghiệp có thể cao hơn, nhưng bản thân con số này cho thấy xu hướng là thất nghiệp đang giảm đi, và đây mới là điều quan trọng cho thấy nỗi lo “tổng cầu yếu” ở Việt Nam là rất thiếu cơ sở.

Căn cứ thứ ba là niềm tin tiêu dùng. Theo báo cáo mới đây nhất của ngân hàng ANZ, chỉ số niềm tin tiêu dùng người Việt Nam đã tăng cao nhất kể từ tháng 3 năm nay, đạt 135,5 điểm, với đa số người được khảo sát cho biết tình hình tài chính tốt lên, và môi trường kinh tế vĩ mô sẽ tốt trong các tháng tới và năm tới. Không cần nói cũng rõ rằng thông thường trong một nền kinh tế trì trệ, người dân không dám tiêu dùng nhiều thì sẽ không bao giờ có được những kết quả khảo sát có mầu hồng như thế này. Và lưu ý rằng đây là khảo sát của ANZ, một ngân hàng phi nhà nước, không chịu áp lực phải “sản xuất” ra những báo cáo tô điểm cho chính sách của nhà nước.

Chưa kể đến những chỉ tiêu gián tiếp phản ánh tổng cầu khác ví dụ như chỉ số bán lẻ ròng, cũng cho thấy một bức tranh sáng sủa khi chỉ số này tăng 6,3% trong 7 tháng đầu năm nay so với 7 tháng cùng ký năm ngoái. Nếu đã là tổng cầu yếu thì hoặc là con số 6,3% tăng này là con số không có thật, hoặc quan niệm “tổng cầu yếu” là sai lầm.

Ngược lại, những căn cứ hậu thuẫn cho luồng ý kiến “tổng cầu yếu” thì lại rất... yếu! Phái “tổng cầu yếu” này thường viện dẫn căn cứ đầu tiên là lạm phát thấp. Nhưng lạm phát thấp lại có thể là kết quả của nhiều yếu tố khác, chứ không phải là tổng cầu yếu. Ngay bản thân Tổng cục Thống kê đã vạch ra thực tế này. Và chỉ cần đặt những câu hỏi ngược như thế
này: chẳng lẽ giá xăng giảm và được mùa nông nghiệp, cũng như giá cả hàng hóa thế giới hạ đi, làm cho lạm phát trong nước giảm đi lại là biểu hiện của tổng cầu yếu đi ở Việt Nam hay sao v.v... là có thể thấy sự vô lý trong lập luận của phái “tổng cầu yếu”.

Hoặc nếu muốn nữa thì có thể tiếp tục hỏi theo chiều thuận là chẳng lẽ vì để cải thiện tổng cầu thì cứ “thả lỏng” cho các loại giá cả, từ dịch vụ y tế, giáo dục, điện, xăng, sữa, lương thực v.v... mà trong số chúng có nhiều mặt hàng đang thuộc diện được bình ổn bởi nhà nước, cốt là làm cho lạm phát tăng lên, từ đó làm tăng tổng cầu ư?

Một căn cứ khác của phái “tổng cầu yếu” là tăng trưởng tín dụng yếu. Nhưng như đã được chỉ ra trong bài “Không nên chạy theo tăng trưởng tín dụng!”, chẳng có một mối quan hệ tỷ lệ thuận nào giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP cả, nên không thể nhìn con số tăng trưởng tín dụng trên 4% trong 8 tháng qua như là một thảm họa cho tổng cầu, và chẳng có lý gì cứ phải cố gắng bằng mọi giá “thúc” tăng trưởng tín dụng phải là 12-14% để mong đạt được tăng trưởng GDP là 5,8% trong năm nay.

Cần lưu ý là chuyện “tổng cầu yếu” cũng xuất hiện ngay trong các báo cáo về tình hình kinh tế trong những tháng, quý qua của các cơ quan hữu quan. Trong khi đó, các báo cáo này đã và vẫn thể hiện một thái độ khá là lạc quan khi công bố những kết quả đã đạt được. Nếu đã là “tổng cầu yếu” thì hoặc là các cơ quan hữu quan không thể nhìn nhận một cách lạc quan những kết quả đã đạt được, coi đó như là sự phấn đấu nỗ lực và thành tích của mình, hoặc là các cơ quan này đã bị “cuốn theo” sự sai lầm trong quan niệm thế nào là tổng cầu yếu.

Và cuối cùng, một số phân tích cũng viện dẫn ra những con số như tồn kho tăng, chỉ số tăng trưởng ngành công nghiệp chế tạo đã chậm lại gần đây để chứng minh rằng tổng cầu yếu. Nhưng những phân tích này đã rất “non tay” khi chỉ phân tích một chiều mà không tự đặt ngược câu hỏi rằng liệu tồn kho tăng lên có phải chỉ là do tổng cầu yếu hay do chính bởi phía cung (sản xuất, chế tạo) đã tăng quá nhanh, quá mạnh (hơn so với tốc độ tăng của cầu) dẫn đến dư cung và tồn kho tăng, buộc các doanh nghiệp phải thu hẹp bớt quy mô tăng trưởng của mình lại? Ví dụ nhãn tiền hiện nay trong ngành thép, vật liệu xây dựng (xi măng...) không cho thấy rõ tình hình dư cung trong những ngành này chẳng phải là không dính dáng gì đến cầu yếu hay sao?

Tóm lại, chúng ta nên lấy làm mừng vì đã trải qua một thời gian dài phát triển nóng chúng ta mới nhận ra sự cần thiết phải tăng trưởng trong ổn định, và nay những yếu tố ổn định đã bước đầu được định hình và đang phát huy tác dụng. Hãy nên biết quý trọng và duy trì sự ổn định đó, vốn đạt được bằng những cái giá quá lớn trong quá khứ, trong những tháng tới, năm tới!

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).