Friday, 3 October 2014

Đằng sau đợt tăng tỷ giá lần này thực sự là gì? (Bài đăng trên CafeF, 4/10)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/dang-sau-dot-tang-ty-gia-lan-nay-thuc-su-la-gi-201410040829363837ca34.chn

Mấy ngày gần đây tỷ giá USD liên tục tăng sau một thời gian khá dài tương đối ổn định. Đã có nhiều giải thích cho đợt tăng tỷ giá mới này. Còn cơ quan chủ quản, như thường lệ, quy cho sự tăng tỷ giá chủ yếu là do tâm lý. Nhưng rõ ràng đang nhiên đang lành thì làm sao mà tự dưng có cái “tâm lý” này được. Không có lửa sao có khói? Vậy lửa ở đây là gì?
 
Một số người thì, theo thói quen, vẫn tiếp tục đưa ra những lý do cũ mòn, như cán cân thương mại đạt thặng dư trong 9 tháng đầu năm. Lý do này rõ ràng không thích hợp khi không xét đến trạng thái cán cân thanh toán. Hơn nữa, việc cộng gộp 9 tháng thế này đã bỏ qua tính thời điểm, mà vì đó có thể gây nên áp lực tăng tỷ giá (ví dụ, nếu cán cân thanh toán trong mấy tháng vừa qua trở nên âm).
 
Bởi vậy, có thể nói nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp làm tăng tỷ giá là phát ngôn của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình trong phiên trả lời chất vấn tại UBTVQH. Ông Bình khẳng định, năm nay sẽ điều chỉnh tỷ giá tối đa từ 1-1,43%.
Do trước đó, ngày 19/6, NHNN đã nâng tỷ giá thêm 1 điểm phần trăm, nên dễ hiểu là thị trường lập tức đồ đoán rằng NHNN sẽ có khả năng điều chỉnh thêm 43 điểm cơ bản nữa từ nay đến cuối năm. Mức này càng có cơ sở, theo dư luận, vì thay vì một con số tròn trịa nào đó, lần này ông Bình đưa ra một con số rất… lẻ (1,43%) như để minh họa cho sự tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng mức độ phá giá (điều chỉnh) phù hợp nhất có thể có của NHNN.
 
Nhưng điều gì làm cho ông Bình phải chọn thời điểm này để tuyên bố khả năng điều chỉnh tỷ giá? Những lý do cho việc này cũng là những lý do để ta có thể kết luận phát ngôn của ông Bình là nguyên nhân chính và trực tiếp làm tỷ giá tăng, chứ không phải vì những lý do khác.
 
Có thể kể ra đây mấy lý do. Lý do thứ nhất, cần lưu ý quy mô dự trữ ngoại hối đã ngừng tăng hoặc tăng không đáng kể. Mặc dù ông Bình cho biết trong phiên chất vấn vừa rồi, dự trữ ngoại hối đã đạt kỷ lục 35 tỷ đôla, cao nhất từ trước đến nay, nhưng cần lưu ý rằng hồi tháng 6, ông Bình cũng tuyên bố dự trữ ngoại hối đã đạt kỷ lục, khoảng 35 tỷ đôla. Như vậy, trong 3 tháng qua, dự trữ ngoại hối nếu có tăng thì chỉ là con số lẻ, không đáng kể. Điều này có nghĩa là cái “gối đỡ” cho tỷ giá – dự trữ ngoại hối – đã không được bổ sung tích cực thêm độ dầy, làm cho sự tự tin về ổn định tỷ giá của NHNN suy giảm phần nào.
 
Lý do thứ hai, vốn đã từng thừa nhận tác dụng tích cực của phá giá (“điều chỉnh” tỷ giá) lên xuất khẩu, nhưng trước bối cảnh sau khi phá giá 1% vào tháng 6, tỷ giá thực tế có thời điểm dài lại giảm xuống thấp hơn cả trước lúc phá giá, nên NHNN có lẽ cũng tỏ ra sốt ruột, hoặc bị một áp lực nào đó phải làm giảm giá VND, cộng thêm với thời điểm cuối năm đã đến gần nên đây cũng là thời điểm tỏ ra khá thích hợp để NHNN tuyên bố lập trường tỷ giá của mình.
 
Lý do thứ ba, cung tiền M2 đã có bước tăng mạnh đáng kể trong 2 tháng qua. Cụ thể, M2 trong tháng 9 tăng 9,93% so với cuối năm 2013, tháng 8 tăng 8,66%, trong khi đó tháng 7 mới chỉ tăng 7,36% so với cuối năm 2013. Dư thừa thanh khoản trong hệ thống đã trầm trọng hơn với sự gia tăng các đợt phát hành tín phiếu NHNN để hút bớt tiền về. Dư thừa thanh khoản đồng nghĩa với áp lực giảm giá VND. Nhưng cũng cần phải lưu ý rằng việc đẩy mạnh tăng cung tiền để tăng thanh khoản cũng có thể nằm trong ý đồ của NHNN muốn phá giá VND như nói ở điểm thứ hai bên trên.
 
Lý do thứ tư, và cũng liên quan đến điểm thứ hai và ba nêu trên, là lãi suất tiền gửi VND đã giảm đáng kể gần đây, làm thu hẹp giãn cách lãi suất giữa VND và USD, và do đó làm giảm tính hấp dẫn của VND so với USD, gây thêm áp lực lên tỷ giá.
 
Với ít nhất 4 lý do như nêu trên, rõ ràng có thể thấy áp lực lên tỷ giá là đã dồn nén trong thời gian qua, dẫn đến lời tuyên bố của ông Bình như là một sự bật đèn xanh cho việc phá giá nhẹ VND.
 
Đến đây, điều gây ngạc nhiên là tuyên bố của Vụ chính sách tiền tệ NHNN rằng NHNN chưa có chủ trương điều chỉnh tỷ giá. Tuyên bố này có thể hiểu ở dưới 2 góc độ. Thứ nhất, Vụ này chỉ cho biết là chưa, chứ không khẳng định rằng NHNN sẽ không điều chỉnh tỷ giá như khả năng nêu ra trong tuyên bố của ông Bình. Có thể NHNN chưa điều chỉnh tỷ giá vào tháng 10 này, nhưng sự việc có thể sẽ không phải vậy trong các tháng sau.
 
Thứ hai, NHNN có thể đang chơi chò “ú tim” với những tuyên bố không đồng nhất với nhau, nhằm tạo ra một sự mù mờ về chính sách mà mục đích cuối cùng là nhằm dẹp nạn đầu cơ đón đầu xu hướng tỷ giá của giới đầu tư, vốn là nguy cơ dẫn đến đánh mất sự kiểm soát tỷ giá của NHNN. Điều này thể hiện qua giãn cách khá rộng giữa giá mua vào và bán ra USD trong hệ thống ngân hàng và trên thị trường tự do, cho thấy một mức độ bất trắc đáng kể trong giới đầu tư về một khả năng đảo chiều của tỷ giá như đã thấy sau đợt phá giá hồi tháng 6.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).