Wednesday, 1 October 2014

Giật mình về con số nợ xấu (Bài đăng trên TBKTSG Online, 2/10, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/120726/No-xau-Co-so-tinh-cua-Moody

Trước tiên, phải nói ngay rằng vì đọc thấy con số nợ xấu 500 nghìn tỷ đồng mà Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới thừa nhận trong cuộc trả lời chất vấn Ủy ban Thường vụ Quốc hội về nợ xấu nên tác giả đã thử ngồi xem lại các số liệu liên quan và giật mình vì phát hiện ra một nhầm lẫn lớn mà không ai, kể cả tác giả, nhận ra cho đến nay.
Đó là con số ước tính tỷ lệ nợ xấu ít nhất là 15% do hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s đưa ra hôm 18/2. Lưu ý rằng đây là tỷ lệ nợ xấu tính trên tổng tài sản, theo thông báo của Moody’s. Và Moody’s thêm rằng: “(tỷ lệ này) cao hơn nhiều tỷ lệ nợ xấu 4.7% được NHNN báo cáo vào tháng 10/2013”.

Thế nhưng, điều đáng nói là từ trước đến nay, NHNN hình như chỉ báo cáo tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay, chứ chưa bao giờ họ báo cáo tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản như Moody’s nói ở bên trên cả. Điều này có nghĩa là Moody’s đã “nhét chữ” vào miệng của người phát ngôn NHNN!
Và cũng đáng nói là NHNN cũng đã không để ý đến chi tiết về tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản của Moody’s, mà lại phản bác luôn Moody’s trong một thông cáo báo chí hôm 21/2 với ý rằng con số tỷ lệ nợ xấu do NHNN công bố mới là con số “đáng tin cậy và có cơ sở pháp lý hơn”.  Nói cách khác, cả Moody’s và NHNN đã lâm vào tình trạng “ông nói gà, bà nói vịt”!

Điều giật mình thứ hai là quy mô nợ xấu theo ước tính của Moody’s. Nếu tính trên tổng tài sản và với tỷ lệ nợ xấu mà họ ước tính là trên 15% thì con số nợ xấu tuyệt đối của hệ thống ngân hàng Việt Nam phải lên tới 860 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2013 (tổng tài sản của hệ thống ngân hàng Việt Nam theo báo cáo là hơn 5,7 triệu tỷ đồng vào thời điểm này).
Nếu đem con số 860 nghìn tỷ trên chia cho tổng dư nợ cho vay của Việt Nam vào cuối năm 2013 là 3.876 nghìn tỷ đồng (theo số liệu của ADB) thì tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam sẽ là trên 22% của tổng dư nợ cho vay, tức còn cao hơn rất nhiều những tỷ lệ nợ xấu mà NHNN công bố/thừa nhận từ trước đến nay (trong thông cáo báo chí ngày 21/2, NHNN cho biết tính thận trọng bao gồm cả nợ xấu được cơ cấu lại cao nhất thì cũng chỉ lên đến 9%).

Quay trở lại với con số nợ xấu 500 nghìn tỷ đồng mà ông Bình mới thừa nhận, bản thân con số này cũng đã là một điều gây giật mình vì từ trước đến nay người ta chưa bao giờ được nghe báo cáo về một khối lượng nợ xấu nào hình như quá 200-300 nghìn tỷ đồng. Tuy có bán tín bán nghi nhưng người ta buộc phải tin những con số nợ xấu “đẹp” hơn do NHNN công bố, để rồi đến nay mới hay thực tế phũ phàng hơn thế nhiều!
Sự giật mình còn chưa dừng ở đó. Tuy con số 500 nghìn tỷ này không rõ là tính đến thời điểm nào, nhưng giả sử là tính đến cuối năm. Dựa theo tổng dư nợ cho vay cuối năm trong các năm 2011-2013 mà ADB có số liệu thì tỷ lệ nợ xấu lần lượt là 16,3%, 13,4%, và 12,9% trong các năm 2011, 2012, và 2013 (tỷ lệ nợ xấu giảm dần vì mẫu số là tổng dư nợ tăng dần). Kể cả tính đến thời điểm nửa năm 2014 với tổng dư nợ tăng thêm 4% thì tỷ lệ nợ xấu vẫn phải là 12,4%. Tất cả những mức này vượt khá xa con số tỷ lệ nợ xấu cao nhất mà NHNN từng thừa nhận (9%) và còn cao hơn thế nữa nếu so với những con số NHNN thường báo cáo là dưới 5% cho đến nay.

Thực tế trên còn có nghĩa là từ trước đến nay NHNN vẫn che giấu nợ xấu, và không hiểu vì lý do nào đó mà con số nợ xấu 500 nghìn tỷ gần sự thật hơn bây giờ mới được tiết lộ. Ở đây, NHNN có một khoảng trống để tự bào chữa bằng cách cung cấp thêm thời điểm của khoản nợ xấu 500 nghìn tỷ này để công luận có thể biết chính xác tỷ lệ nợ xấu thực sự là bao nhiêu, có thể thấp hơn đáng kể những con số mà ta ước tính như trên.
Và cũng từ thực tế về con số nợ xấu làm bao người phải giật mình như trên nên NHNN đã làm sứt mẻ đáng kể uy tín và mức độ tin cậy của mình. Do đó, cho dù Thống đốc có cố gắng làm yên lòng công luận về vấn đề nợ xấu thế nào chăng nữa, sẽ không ít người đặt câu hỏi, liệu đến một ngày đẹp trời nào đó, một con số thực và “khủng” hơn về nợ xấu mới được thừa nhận một lần nữa? Hy vọng rằng nếu có một con số nợ xấu mới thì nó cũng không quá lớn, đến 860 nghìn tỷ đồng như Moody’s ước tính!

Và suy cho cùng, hiện nay nợ xấu đang và đã được xử lý bao nhiêu, như thế nào, bằng công cụ gì v.v... như NHNN đang giải trình nghe rất ... khả quan để làm yên lòng dân chúng thì chỉ có NHNN mới biết, và NHNN nói thế nào thì dân chúng đành biết thế, đành tin thế, chứ có cách gì kiểm chứng được, trừ sự “tự giác” của NHNN?

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).