Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã đưa ra dự thảo Luật
hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu. Điều đáng chú ý đầu
tiên trong dự thảo luật này là Điều 28 về biện pháp hỗ trợ tổ chức tín dụng
(TCTD) yếu kém được mua bắt buộc. Theo đó, TCTD yếu kém được mua bắt buộc có thể
được Chính phủ cấp vốn để bổ sung vốn điều lệ, hoặc Chính phủ cho vay dài hạn với
lãi suất đến 0%.
Việc tái cơ cấu các TCTD yếu kém, bao gồm hình thức mua bắt
buộc có liên quan mật thiết đến, chính xác ra là hầu hết bắt nguồn từ việc
chúng có quá nhiều nợ xấu. Bởi vậy, tái cơ cấu TCTD yếu kém cũng có nghĩa là giải
quyết nợ xấu. Trên khía cạnh này, dự thảo là văn bản luật đầu tiên (nếu được
thông qua) chính thức chấp nhận, hợp pháp hóa (một cách gián tiếp) việc dùng
ngân sách để xử lý nợ xấu – một chủ đề đã gây ra nhiều tranh luận trái chiều
trong suốt nhiều tháng qua. Bằng văn bản luật này, việc nên hay không nên, được
hay không được được dùng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu đã được trả lời chỉ
bằng mấy chữ ngắn gọn như vậy.
Có điều, cho đến nay lý do tại sao và tính cần thiết phải
dùng ngân sách để xử lý nợ xấu chưa bao giờ được giải thích thỏa đáng, và/hoặc
được đề xuất một cách chính thức và rõ ràng bởi các cơ quan có thẩm quyền. Nếu
có thì cùng lắm mới chỉ dừng lại ở mức đề xuất dùng ngân sách để xử lý nợ xấu trong
kế hoạch tái cơ cấu của, ví dụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư soạn thảo, trong đó thậm
chí ngân sách nhà nước được thay bằng khái niệm khá mập mờ là “nguồn lực nhà nước”.
Ngay cả trong Tờ trình Dự án Luật hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và xử
lý nợ xấu, NHNN đã không có một dòng giải thích, làm rõ vấn đề này.
Trong khi đó, Nghị quyết về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc
gia giai đoạn 2016-2020 được Quốc hội thông qua tháng 11 năm ngoái đã nêu rõ: “Không sử dụng ngân sách nhà nước để cơ cấu lại doanh nghiệp
nhà nước, xử lý nợ xấu hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước, cấp vốn điều lệ
cho tổ chức tín dụng thương mại hoặc đóng góp cổ phần tại các tổ chức tài chính
quốc tế”.
NHNN có thể biện minh rằng TCTD bị mua lại
bắt buộc tức là đã thuộc sở hữu nhà nước (thành doanh nghiệp nhà nước) nên việc
Chính phủ cấp vốn hay cho vay dài hạn 0% TCTD này từ nguồn vốn ngân sách vẫn là
đúng đắn và hợp lý. Lập luận này sai vì trong Nghị quyết Quốc hội trích dẫn ở
trên, đã quy định rõ không sử dụng ngân sách nhà nước để cơ cấu lại doanh nghiệp
nhà nước. Và lập luận này cũng sai ở chỗ TCTD cũng có thể bị mua bắt buộc bởi
TCTD khác mà không nhất thiết phải là NHNN, nên không nhất thiết TCTD bị mua bắt
buộc sẽ trở thành doanh nghiệp nhà nước sau khi bị mua bắt buộc.
Ngoài bất cập trên, dự thảo còn một số quy định chưa rõ
ràng, hợp lý. Điều 6 về miễn trừ trách nhiệm quy định: “Khi tham gia xử lý tổ chức tín dụng yếu kém, cán bộ, công chức NHNN, thành viên Ban kiểm soát đặc biệt, nhân sự của tổ chức tín dụng được NHNN chỉ định tham gia hỗ
trợ không chịu trách nhiệm pháp lý về kết quả của việc thực hiện các phương án xử lý
tổ chức tín dụng yếu kém”.
Quy định trên là không hợp lý với những trường hợp, ví dụ, những người tham
gia xử lý TCTD yếu kém có động cơ cá nhân, vụ lợi, hoặc vì một lý do chủ quan
nào đó không thực hiện công tâm, đúng và tốt trách nhiệm của mình trong quá
trình xử lý TCTD. Do không thể khẳng định hoàn toàn không có khả năng xảy ra những
trường hợp này nên quy định này cần được bổ sung các điều kiện nhất định để người
tham gia xử lý TCTD yếu kém được hưởng quyền miễn trừ này.
Khoản 2, Điều 7 quy định NHNN xác định TCTD yếu kém thông qua ba kênh khác
nhau, trong đó không có kênh từ chính TCTD yếu kém. Lưu ý là tại Khoản 1 cũng của
Điều 7 này quy định: “Khi có nguy cơ mất khả năng chi trả, nguy cơ mất khả năng
thanh toán, TCTD phải kịp thời báo cáo với Ngân hàng Nhà nước về thực trạng,
nguyên nhân…”. Theo quy định tại Khoản 2 này thì dù TCTD có kịp thời báo cáo
tình trạng yếu kém của mình, phải chăng vẫn có khả năng NHNN không xác định
TCTD đó là yếu kém mà cứ nhất thiết phải đợi xác định qua một, hai hoặc cả ba
kênh như quy định?
Khoản 3, Điều 7, NHNN xem xét, quyết định đặt TCTD vào tình trạng kiểm soát
đặc biệt khi TCTD lâm vào một trong các trường hợp, trong số đó có trường hợp
(i) mất khả năng thanh toán và (ii) có nguy cơ mất khả năng chi trả. Vì NHNN
không định nghĩa về khả năng thanh toán và khả năng chi trả, và trên thực tế
thì có thể coi chúng là một nên quy định như vậy hoặc là trùng lặp, hoặc là
không rõ ràng (nếu NHNN coi hai khái niệm này là khác nhau).
Cũng Khoản 3, Điều 7 có nêu trường hợp TCTD bị đặt vào tình trạng kiểm soát
đặc biệt khi: “Có nguy cơ mất khả năng thanh toán, bao gồm cả trường hợp nợ
không có khả năng thu hồi hoặc mô hình kinh doanh tiềm ẩn rủi ro hoặc Hội đồng
quản trị, Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc (Giám đốc) vi phạm pháp luật”. Khả
năng thanh toán và khả năng thu hồi nợ là hai khái niệm khác nhau hoàn toàn,
không thể gộp chúng vào như hiện tại trong dự thảo qua từ “bao gồm”. Tương tự
như vậy là mối liên hệ giữa nguy cơ mất khả năng thanh toán với mô hình kinh
doanh tiềm ẩn rủi ro, hoặc người đứng đầu TCTD phạm pháp.
Phải chăng ý của NHNN trong quy định này là TCTD có nguy cơ mất khả năng
thanh toán trong những trường hợp, ví dụ như, khi có nợ không có khả năng thu hồi
hoặc mô hình kinh doanh tiềm ẩn rủi ro hoặc Hội đồng quản trị, Hội đồng thành
viên, Tổng giám đốc (Giám đốc) vi phạm pháp luật v.v…? Nếu đúng vậy thì cần viết
lại cho rõ ràng hơn như thế này.
Và cũng Khoản 3, Điều 7 quy định: “Khi số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng lớn
hơn 50% giá trị của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ …”. Lưu ý là số lỗ lũy kế sẽ
thay đổi theo thời điểm và thời kỳ tính
lũy kế. Bởi vậy, quy định này là không rõ ràng.
Điều 10, về thẩm quyền của NHNN đối với TCTD yếu kém, quy định trong trường
hợp cần thiết, NHNN cho vay tái cấp vốn, cho vay đặc biệt để hỗ trợ thanh khoản
chi trả cho người gửi tiền là cá nhân. Tuy nhiên, quy định như vậy là quá hạn hẹp
vì tiền từ cho vay tái cấp vốn, cho vay đặc biệt còn cần để giải quyết các
nghĩa vụ nợ khác rất cấp bách và chính đáng, với chủ nợ không phải là người gửi
tiền cá nhân, ví dụ thậm chí là nhà thầu cung ứng vật tư, máy móc chuyên dụng
mà TCTD còn nợ đọng vì mất khả năng chi trả.
Tất nhiên là NHNN có quyền nói là vốn của họ thì chỉ được dùng cho mục đích
như quy định. Nhưng cần lưu ý thêm là việc rót vốn của NHNN là để cứu TCTD khỏi
phá sản, mất khả năng chi trả, thanh toán. Nếu nhà thầu cung cấp bị nợ đọng khởi
kiện TCTD và tòa án công nhận quyền lợi của nhà thầu thì TCTD yếu kém và gián
tiếp là NHNN hoặc TCTD đứng ra xử lý TCTD yếu kém sẽ phải chịu trách nhiệm
thanh toán, nếu không muốn TCTD yếu kém bị tuyên bố phá sản.
Cũng liên quan đến Điều 10, Điều 12 quy định TCTD yếu kém được vay đặc biệt
của NHNN và một số tổ chức khác để (i) hỗ trợ thanh khoản khi TCTD lâm vào tình
trạng mất khả năng chi trả, hoặc (ii) để hỗ trợ phục hồi hoặc xử lý pháp nhân
theo phương án phục hồi…
Như nói ở trên, nếu theo Điều 10 thì khoản vay đặc biệt này chỉ dành để chi
trả cho người gửi tiền cá nhân. Trong khi đó, Điều 12 lại mở rộng mục đích được
sử dụng vốn vay đặc biệt, tức có sự không nhất quán với Điều 10. Ngay cả mục
đích hỗ trợ thanh khoản khi mất khả năng chi trả ở Điều 12 cũng đã có thể bao
hàm cả việc chi trả không chỉ cho người gửi tiền cá nhân mà còn tổ chức nữa,
khác với Điều 10.
Điều 20 về các biện pháp hỗ trợ tài chính, trong đó có quy định TCTD yếu
kém được bán nợ xấu không đủ điều kiện cho VAMC. Nhưng vì VAMC hầu như chỉ
thanh toán cho TCTD yếu kém bằng trái phiếu đặc biệt dùng để chiết khấu tại
NHNN để lấy “tiền tươi” nên nếu dự thảo không quy định NHNN phải chiết khấu trái
phiếu đặc biệt và NHNN không (muốn) làm như vậy thì rốt cuộc TCTD yếu kém cũng
không có nguồn tài chính thật, bổ sung cho hoạt động của mình.
Điều 28, về điều kiện mua bắt buộc TCTD yếu kém có điều kiện là có TCTD đề
xuất mua. Dự thảo đã không có quy định xử lý trường hợp có hơn một TCTD đề xuất
mua. Hơn nữa, vì dự thảo không có quy định bắt buộc TCTD yếu kém hoặc NHNN phải
công khai tình trạng yếu kém của TCTD này nên có lẽ chỉ có những TCTD “thân thiết”
với NHNN mới được “rỉ tai” về tình trạng yếu kém của TCTD này và được bật đèn
xanh cho việc mua bắt buộc.
Điều 36 về biện pháp hỗ trợ đối với TCTD được chỉ định, dự
thảo hiện tại mới chỉ nêu những biện pháp giúp không làm thiệt hại, hoặc giảm
thiểu thiệt hại cho TCTD được chỉ định chứ chưa có những biện pháp rõ ràng giúp
làm lợi cho TCTD được chỉ định để làm họ có thêm động cơ tích cực “xắn tay” vào
xử lý TCTD yếu kém, để làm cho việc tham gia xử lý TCTD yếu kém của họ không phải
là một sự miễn cưỡng, bắt buộc theo chỉ định của NHNN.
No comments:
Post a Comment