Saturday 8 April 2017

Hợp pháp hóa dùng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu (Bài đăng trên TBKTSG, 8/4/2017, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/158711/Hop-phap-hoa-dung-ngan-sach-nha-nuoc-de-xu-ly-no-xau.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã đưa ra dự thảo Luật hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu. Điều đáng chú ý đầu tiên trong dự thảo luật này là Điều 28 về biện pháp hỗ trợ tổ chức tín dụng (TCTD) yếu kém được mua bắt buộc. Theo đó, TCTD yếu kém được mua bắt buộc có thể được Chính phủ cấp vốn để bổ sung vốn điều lệ, hoặc Chính phủ cho vay dài hạn với lãi suất đến 0%.
Việc tái cơ cấu các TCTD yếu kém, bao gồm hình thức mua bắt buộc có liên quan mật thiết đến, chính xác ra là hầu hết bắt nguồn từ việc chúng có quá nhiều nợ xấu. Bởi vậy, tái cơ cấu TCTD yếu kém cũng có nghĩa là giải quyết nợ xấu. Trên khía cạnh này, dự thảo là văn bản luật đầu tiên (nếu được thông qua) chính thức chấp nhận, hợp pháp hóa (một cách gián tiếp) việc dùng ngân sách để xử lý nợ xấu – một chủ đề đã gây ra nhiều tranh luận trái chiều trong suốt nhiều tháng qua. Bằng văn bản luật này, việc nên hay không nên, được hay không được được dùng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu đã được trả lời chỉ bằng mấy chữ ngắn gọn như vậy.
Có điều, cho đến nay lý do tại sao và tính cần thiết phải dùng ngân sách để xử lý nợ xấu chưa bao giờ được giải thích thỏa đáng, và/hoặc được đề xuất một cách chính thức và rõ ràng bởi các cơ quan có thẩm quyền. Nếu có thì cùng lắm mới chỉ dừng lại ở mức đề xuất dùng ngân sách để xử lý nợ xấu trong kế hoạch tái cơ cấu của, ví dụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư soạn thảo, trong đó thậm chí ngân sách nhà nước được thay bằng khái niệm khá mập mờ là “nguồn lực nhà nước”. Ngay cả trong Tờ trình Dự án Luật hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu, NHNN đã không có một dòng giải thích, làm rõ vấn đề này.
Trong khi đó, Nghị quyết về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020 được Quốc hội thông qua tháng 11 năm ngoái đã nêu rõ: “Không sử dụng ngân sách nhà nước để cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, xử lý nợ xấu hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước, cấp vốn điều lệ cho tổ chức tín dụng thương mại hoặc đóng góp cổ phần tại các tổ chức tài chính quốc tế”.
NHNN có thể biện minh rằng TCTD bị mua lại bắt buộc tức là đã thuộc sở hữu nhà nước (thành doanh nghiệp nhà nước) nên việc Chính phủ cấp vốn hay cho vay dài hạn 0% TCTD này từ nguồn vốn ngân sách vẫn là đúng đắn và hợp lý. Lập luận này sai vì trong Nghị quyết Quốc hội trích dẫn ở trên, đã quy định rõ không sử dụng ngân sách nhà nước để cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Và lập luận này cũng sai ở chỗ TCTD cũng có thể bị mua bắt buộc bởi TCTD khác mà không nhất thiết phải là NHNN, nên không nhất thiết TCTD bị mua bắt buộc sẽ trở thành doanh nghiệp nhà nước sau khi bị mua bắt buộc.        
Ngoài bất cập trên, dự thảo còn một số quy định chưa rõ ràng, hợp lý. Điều 6 về miễn trừ trách nhiệm quy định: “Khi tham gia xử lý tổ chức tín dụng yếu kém, cán bộ, công chức NHNN, thành viên Ban kiểm soát đặc biệt, nhân sự của tổ chức tín dụng được NHNN chỉ định tham gia hỗ trợ không chịu trách nhiệm pháp lý về kết quả của việc thực hiện các phương án xử lý tổ chức tín dụng yếu kém.
Quy định trên là không hợp lý với những trường hợp, ví dụ, những người tham gia xử lý TCTD yếu kém có động cơ cá nhân, vụ lợi, hoặc vì một lý do chủ quan nào đó không thực hiện công tâm, đúng và tốt trách nhiệm của mình trong quá trình xử lý TCTD. Do không thể khẳng định hoàn toàn không có khả năng xảy ra những trường hợp này nên quy định này cần được bổ sung các điều kiện nhất định để người tham gia xử lý TCTD yếu kém được hưởng quyền miễn trừ này.
Khoản 2, Điều 7 quy định NHNN xác định TCTD yếu kém thông qua ba kênh khác nhau, trong đó không có kênh từ chính TCTD yếu kém. Lưu ý là tại Khoản 1 cũng của Điều 7 này quy định: “Khi có nguy cơ mất khả năng chi trả, nguy cơ mất khả năng thanh toán, TCTD phải kịp thời báo cáo với Ngân hàng Nhà nước về thực trạng, nguyên nhân…”. Theo quy định tại Khoản 2 này thì dù TCTD có kịp thời báo cáo tình trạng yếu kém của mình, phải chăng vẫn có khả năng NHNN không xác định TCTD đó là yếu kém mà cứ nhất thiết phải đợi xác định qua một, hai hoặc cả ba kênh như quy định?
Khoản 3, Điều 7, NHNN xem xét, quyết định đặt TCTD vào tình trạng kiểm soát đặc biệt khi TCTD lâm vào một trong các trường hợp, trong số đó có trường hợp (i) mất khả năng thanh toán và (ii) có nguy cơ mất khả năng chi trả. Vì NHNN không định nghĩa về khả năng thanh toán và khả năng chi trả, và trên thực tế thì có thể coi chúng là một nên quy định như vậy hoặc là trùng lặp, hoặc là không rõ ràng (nếu NHNN coi hai khái niệm này là khác nhau).
Cũng Khoản 3, Điều 7 có nêu trường hợp TCTD bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt khi: “Có nguy cơ mất khả năng thanh toán, bao gồm cả trường hợp nợ không có khả năng thu hồi hoặc mô hình kinh doanh tiềm ẩn rủi ro hoặc Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc (Giám đốc) vi phạm pháp luật”. Khả năng thanh toán và khả năng thu hồi nợ là hai khái niệm khác nhau hoàn toàn, không thể gộp chúng vào như hiện tại trong dự thảo qua từ “bao gồm”. Tương tự như vậy là mối liên hệ giữa nguy cơ mất khả năng thanh toán với mô hình kinh doanh tiềm ẩn rủi ro, hoặc người đứng đầu TCTD phạm pháp.
Phải chăng ý của NHNN trong quy định này là TCTD có nguy cơ mất khả năng thanh toán trong những trường hợp, ví dụ như, khi có nợ không có khả năng thu hồi hoặc mô hình kinh doanh tiềm ẩn rủi ro hoặc Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc (Giám đốc) vi phạm pháp luật v.v…? Nếu đúng vậy thì cần viết lại cho rõ ràng hơn như thế này.
Và cũng Khoản 3, Điều 7 quy định: “Khi số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 50% giá trị của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ …”. Lưu ý là số lỗ lũy kế sẽ thay đổi theo thời điểm và  thời kỳ tính lũy kế. Bởi vậy, quy định này là không rõ ràng.
Điều 10, về thẩm quyền của NHNN đối với TCTD yếu kém, quy định trong trường hợp cần thiết, NHNN cho vay tái cấp vốn, cho vay đặc biệt để hỗ trợ thanh khoản chi trả cho người gửi tiền là cá nhân. Tuy nhiên, quy định như vậy là quá hạn hẹp vì tiền từ cho vay tái cấp vốn, cho vay đặc biệt còn cần để giải quyết các nghĩa vụ nợ khác rất cấp bách và chính đáng, với chủ nợ không phải là người gửi tiền cá nhân, ví dụ thậm chí là nhà thầu cung ứng vật tư, máy móc chuyên dụng mà TCTD còn nợ đọng vì mất khả năng chi trả.

Tất nhiên là NHNN có quyền nói là vốn của họ thì chỉ được dùng cho mục đích như quy định. Nhưng cần lưu ý thêm là việc rót vốn của NHNN là để cứu TCTD khỏi phá sản, mất khả năng chi trả, thanh toán. Nếu nhà thầu cung cấp bị nợ đọng khởi kiện TCTD và tòa án công nhận quyền lợi của nhà thầu thì TCTD yếu kém và gián tiếp là NHNN hoặc TCTD đứng ra xử lý TCTD yếu kém sẽ phải chịu trách nhiệm thanh toán, nếu không muốn TCTD yếu kém bị tuyên bố phá sản.
Cũng liên quan đến Điều 10, Điều 12 quy định TCTD yếu kém được vay đặc biệt của NHNN và một số tổ chức khác để (i) hỗ trợ thanh khoản khi TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, hoặc (ii) để hỗ trợ phục hồi hoặc xử lý pháp nhân theo phương án phục hồi…
Như nói ở trên, nếu theo Điều 10 thì khoản vay đặc biệt này chỉ dành để chi trả cho người gửi tiền cá nhân. Trong khi đó, Điều 12 lại mở rộng mục đích được sử dụng vốn vay đặc biệt, tức có sự không nhất quán với Điều 10. Ngay cả mục đích hỗ trợ thanh khoản khi mất khả năng chi trả ở Điều 12 cũng đã có thể bao hàm cả việc chi trả không chỉ cho người gửi tiền cá nhân mà còn tổ chức nữa, khác với Điều 10.
Điều 20 về các biện pháp hỗ trợ tài chính, trong đó có quy định TCTD yếu kém được bán nợ xấu không đủ điều kiện cho VAMC. Nhưng vì VAMC hầu như chỉ thanh toán cho TCTD yếu kém bằng trái phiếu đặc biệt dùng để chiết khấu tại NHNN để lấy “tiền tươi” nên nếu dự thảo không quy định NHNN phải chiết khấu trái phiếu đặc biệt và NHNN không (muốn) làm như vậy thì rốt cuộc TCTD yếu kém cũng không có nguồn tài chính thật, bổ sung cho hoạt động của mình.
Điều 28, về điều kiện mua bắt buộc TCTD yếu kém có điều kiện là có TCTD đề xuất mua. Dự thảo đã không có quy định xử lý trường hợp có hơn một TCTD đề xuất mua. Hơn nữa, vì dự thảo không có quy định bắt buộc TCTD yếu kém hoặc NHNN phải công khai tình trạng yếu kém của TCTD này nên có lẽ chỉ có những TCTD “thân thiết” với NHNN mới được “rỉ tai” về tình trạng yếu kém của TCTD này và được bật đèn xanh cho việc mua bắt buộc. 
Điều 36 về biện pháp hỗ trợ đối với TCTD được chỉ định, dự thảo hiện tại mới chỉ nêu những biện pháp giúp không làm thiệt hại, hoặc giảm thiểu thiệt hại cho TCTD được chỉ định chứ chưa có những biện pháp rõ ràng giúp làm lợi cho TCTD được chỉ định để làm họ có thêm động cơ tích cực “xắn tay” vào xử lý TCTD yếu kém, để làm cho việc tham gia xử lý TCTD yếu kém của họ không phải là một sự miễn cưỡng, bắt buộc theo chỉ định của NHNN.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).