Tuesday 25 April 2017

Tránh bộ máy cồng kềnh, bị lạm dụng (Bài đăng trên TBKTSG, 25/4/2017, tiêu đề do báo đặt)



Một điểm nổi bật trong dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi) là những quy định về thành lập, hoạt động, chức năng, thẩm quyền và nhiệm vụ của Ủy ban Cạnh tranh quốc gia (UBCTQG).
 
Không cần phải có Ủy ban cạnh tranh quốc gia
 
Mặc dù việc đưa ra mô hình UBCTQG có thể là kết quả của nhiều cuộc trao đổi và hội thảo chuyên ngành nhưng tự thân nó cho thấy sự lúng túng và bế tắc của các cơ quan hữu trách trong lập pháp và hành pháp.
 
Hẳn không ít người nhận thấy mấy năm gần đây có một xu hướng là cứ có vấn đề kinh tế - xã hội gì nổi cộm mà chưa được xử lý ổn thỏa thì thế nào cũng sẽ có các kiến nghị với đề xuất thành lập một cái ủy ban liên đới, nhiều đến mức độ có thể coi là “dịch ủy ban”. Chẳng hạn như các đề xuất thành lập Ủy ban tái cơ cấu kinh tế, Ủy ban xử lý nợ xấu, Ủy ban tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, Ủy ban về an toàn thực phẩm, Ủy ban quản lý vốn nhà nước, Ủy ban giám sát và kiểm soát nợ công, Ủy ban quản lý, giám sát vốn và tài sản nhà nước...
 
Chỉ cần nhìn vào danh sách sẽ tiếp tục dài thêm của những ủy ban kiểu này thôi là đã đủ “choáng” với hậu quả nhãn tiền là biên chế và bộ máy nhà nước sẽ tiếp tục phình to một cách “đúng quy trình” và ở quy mô và chi phí không thể kiểm soát được, vì mỗi ủy ban sẽ là cả một bộ máy đầy đủ ban bệ từ trên xuống dưới, nhân lên với nhiều ủy ban trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Quan trọng hơn, sự ra đời của những ủy ban này không có gì đảm bảo sẽ xử lý hiệu quả các vấn đề nổi cộm, chí ít vì các ủy ban này chồng chéo, làm thay, giẫm lên chân các cơ quan quản lý nhà nước liên đới khác.
   
 
Trở lại với các quy định về UBCTQG trong dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi), UBCTQG chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh, còn Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về cạnh tranh. Các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với UBCTQG thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh.

Trong khi đã có Chính phủ “thống nhất quản lý nhà nước”, và bên dưới là cả một bộ máy thực hiện đồ sộ gồm các bộ và UBND thì rõ ràng không cần phải có UBCTQG. Mọi vấn đề vướng mắc, phát sinh trong thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh bởi các cơ quan chuyên trách như Bộ Tài chính, Bộ Công Thương (cần được Luật Cạnh tranh trao thêm nhiều quyền và nghĩa vụ liên quan trong quản lý nhà nước về cạnh tranh) sẽ được thống nhất giải quyết ở cấp Chính phủ mà không cần phải qua cấp trung gian là UBCTQG. Tạo thêm UBCTQG chẳng khác gì tạo thêm một Chính phủ trong lòng Chính phủ, vô hiệu hóa vai trò của các bộ chuyên trách, và đặt ra câu hỏi nghiêm túc về vai trò và chất lượng hoạt động của Chính phủ nói chung.
 
Hơn nữa, theo cùng logic trong dự thảo sửa đổi luật này và trở thành một tiền lệ, mỗi một văn bản luật mới ra đời có nhiều khả năng sẽ được đi kèm với sự ra đời của một ủy ban liên đới. Điều này là không thể chấp nhận được vì làm cho bộ máy quản lý nhà nước vốn đã quá cồng kềnh sẽ càng cồng kềnh hơn, kém hiệu quả và gây lãng phí tiền thuế của dân.
 
Dễ bị lạm dụng
 
Ngoài những quy định bất hợp lý về sự tồn tại và vai trò của UBCTQG, dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi) còn có một số bất hợp lý khác. Điều 4 của dự thảo về quyền cạnh tranh trong kinh doanh quy định hoạt động cạnh tranh phải được tiến hành theo nguyên tắc trung thực, công bằng và lành mạnh, không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác, của người tiêu dùng.
 
Quy định này không rõ ràng, dễ bề bị lạm dụng. Giả sử một nhà sản xuất mì ăn liền bằng phương pháp không chiên quảng cáo rùm beng rằng (phần lớn) các loại mì ăn liền khác hiện nay đều bị chiên, có nhiều chất béo bão hòa không có lợi cho sức khỏe. Chưa biết người tiêu dùng có chuyển sang mua loại mì mới này không nhưng chắc chắn là việc “tự nguyện công bố sự thật” này (đúng là sự thật) sẽ làm sụt giảm doanh số của các nhà sản xuất mì ăn liền truyền thống. Vậy hành vi này có vi phạm Luật Cạnh tranh, có được phép không khi nó vẫn đảm bảo nguyên tắc trung thực, công bằng và lành mạnh, có nghĩa là có sao nói vậy, dựa trên kết quả khách quan, không đâm đối thủ đằng sau lưng, nói xấu đối thủ một cách vô căn cứ, đồng thời vẫn làm lợi cho người tiêu dùng trên cái nghĩa là hạn chế họ ăn các sản phẩm độc hại?
 
Hay một ví dụ khác. Những đề xuất tương tự sau này như đề xuất về giá sàn vé máy bay gần đây có thể nhân danh Luật Cạnh tranh để được thông qua. Người đề xuất sẵn sàng cung cấp thông tin trung thực, minh bạch từ thực tế kinh doanh của mình để chứng minh rằng giá vé máy bay không thể nào lại là 0 đồng, hay dưới một ngưỡng nào đó (ngưỡng sàn) khi tính đầy đủ các loại chi phí. Việc hãng hàng không nào bán vé 0 đồng được quy cho là cạnh tranh không công bằng, lành mạnh để gia tăng thị phần nhằm hạ chi phí và tăng lợi nhuận sau này, xâm phạm đến lợi ích của doanh nghiệp khác (thua lỗ), lợi ích của Nhà nước (thất thu thuế), lợi ích công cộng (an toàn bay bị uy hiếp do cắt giảm chi phí liên quan), và của người tiêu dùng (chất lượng phục vụ giảm sút, sẽ phải mua vé giá cao sau này khi hàng bay giá 0 đồng thâu tóm được thị trường).
 
Ngoài ra, một hành vi sẽ không bao giờ có thể đảm bảo quyền, lợi ích cho mọi đối tượng có liên quan cùng một lúc. Nếu hành vi quảng cáo mì ăn liền hay đề xuất áp giá sàn vé máy bay nói trên được chấp thuận thì chúng chỉ có thể đảm bảo lợi ích cho một số đối tượng và sẽ xâm phạm lợi ích của một số đối tượng khác. Ví dụ, đề xuất giá sàn vé máy bay làm lợi cho các hãng hàng không “không thể bay rẻ” nhưng đồng thời cũng xâm phạm lợi ích của các hãng hàng không giá rẻ (0 đồng) và của hành khách khi phải mua vé đắt hơn.
 
Như vậy, một mặt cần quy định rõ ràng hơn điều 4 này để tránh tình trạng bị lạm dụng theo kiểu muốn hiểu, vận dụng kiểu gì cũng đúng. Mặt khác, cần có một cơ chế về thanh tra, phúc khảo một cách độc lập các quyết định, phán quyết về cạnh tranh để tránh tình trạng các quyết định, phán quyết này bị sai hay thiếu sót, không công tâm, mang màu sắc lợi ích nhóm. Dự thảo luật hiện chưa có những quy định liên quan đến các vấn đề này.
 
Những bất hợp lý khác
 
Tương tự, khoản 4, điều 5 của dự thảo luật liên quan đến chính sách của Nhà nước về cạnh tranh, nêu: “Kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa chính sách cạnh tranh với chính sách thương mại, chính sách công nghiệp và chính sách điều tiết ngành”. Sự kết hợp này cụ thể nhằm mục đích gì, đồng bộ và hiệu quả như thế nào? Liệu điều này có thể bị lạm dụng để mở đường cho những quyết định hạn chế cạnh tranh, ảnh hưởng người tiêu dùng như tăng thuế nhập khẩu để bảo vệ lợi ích của một nhóm nhà sản xuất nội địa dưới danh nghĩa là để phục vụ chính sách công nghiệp hóa, tạo công ăn việc làm?
 
Trong điều 6 về hành vi bị cấm đối với cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập, khoản 1 quy định cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập được chỉ định mua, bán hàng hóa, dịch vụ với doanh nghiệp được các cơ quan này chỉ định trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước hoặc trong trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật.
 
Quy định này không hợp lý ở chỗ độc quyền nhà nước về hàng hóa và dịch vụ không có nghĩa là độc quyền nhà nước về doanh nghiệp cung cấp hàng hóa và dịch vụ đó. Kể cả có một doanh nghiệp nhà nước duy nhất sản xuất một loại hàng hóa độc quyền nhà nước, ví dụ như thuốc lá điếu, thì ít nhất cũng phải cho phép các đại lý được tự do cạnh tranh trong việc cung cấp thuốc lá với giá khác nhau, tùy theo mức độ chấp nhận hoa hồng của mỗi đại lý, chứ không nhất thiết phải bắt người tiêu dùng chỉ được mua tại đại lý X, Y, Z...

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).