Thursday, 28 June 2018

Nhìn nhận về DNNN đã thay đổi nhưng chưa thể yên tâm (Bài đăng trên TBKTSG, 28/6/2018, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/274093/nhin-nhan-ve-dnnn-da-thay-doi-nhung-chua-the-yen-tam.html

Quốc hội mới đây đã thông qua nghị quyết về tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Nghị quyết này có một số nội dung đáng chú ý liên quan đến số phận các DNNN trong thời gian tới.

Thái độ đã thay đổi?

Một nội dung rất quan trọng được nêu trong nghị quyết là “DNNN đã chuyển dịch theo hướng tập trung hơn vào những ngành nghề then chốt của nền kinh tế hoặc những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không tham gia, tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, góp phần bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”. (1)

Trước đây, quan điểm chính thống vẫn là khoác cho DNNN vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần để đảm bảo định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa. Do thực tiễn đã thay đổi nên về sau quan điểm này đã phải được sửa sang cho hợp thời hơn. Cụ thể, thay vì DNNN, không biết chính xác từ khi nào và bắt đầu từ đâu, người ta đã lặng lẽ dùng khái niệm kinh tế nhà nước, bao gồm trong đó DNNN, để rồi Đại hội XII của Đảng đã chính thức khẳng định “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. (2)

Tuy nhiên, trên thực tế, dường như không ít người hiểu rõ chuyện thay đổi chữ nghĩa trên chỉ là chuyện “hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Chẳng hạn, trong một bài viết sắc sảo trên báo Nhân Dân ngày 5/6/2017 bàn về sự thuyết phục của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tác giả Trương Minh Tuấn đã thẳng thắn nêu rõ: “Để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa đạt tới mục tiêu, trong nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta, doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo.” Đồng thời, tác giả cũng đã phản bác một cách thuyết phục các ý kiến bài bác hoặc tranh cãi tư biện về sự chủ đạo này, để một lần nữa làm bật lên ý nghĩa của vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước. (3)

Nay, với nghị quyết trên của Quốc hội, DNNN “tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển cả kinh tế đất nước”, một vai trò có thể nói là khiêm tốn hơn nhiều so với vai trò chủ đạo trước đây và ngầm định như hiện nay. Và với cụm từ “tiếp tục đóng vai trò quan trọng”, có thể nói DNNN đã được gián tiếp thừa nhận là chưa bao giờ đóng vai trò chủ đạo (một cách thành công) trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Như vậy, rõ ràng đại đa số đại biểu Quốc hội khi bấm nút thông qua nghị quyết trên đã không còn băn khoăn gì nữa về sứ mạng, vai trò thật sự trong quá khứ, hiện tại, và tương lai của DNNN ở Việt Nam.

Chưa thể an tâm

Bên cạnh chuyện thay đổi thái độ đối với vai trò của DNNN để có thể từ đó Việt Nam không nhất thiết phải dồn (thêm) nguồn lực khan hiếm cho DNNN để mong ngóng chúng đóng tròn vai “chủ đạo” một ngày nào đó trong tương lai, nghị quyết trên của Quốc hội còn nêu rõ không dùng ngân sách để xử lý thua lỗ của doanh nghiệp. Nếu được thực hiện nghiêm túc, đây là những thay đổi, quyết định rất sáng suốt, hợp lòng dân. Bởi nếu mổ xẻ những dự án, những DNNN làm ăn thua lỗ trong suốt thời gian dài đều thấy rõ những nguyên nhân chủ quan là chủ yếu như tham ô, tham nhũng, cố ý làm trái quy định của pháp luật và sự yếu kém của lãnh đạo doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản. Không có một ngân sách nào, không có một nguyên tắc tài chính nào cho phép và/hoặc đủ khả năng để bù lỗ mãi cho những yếu kém và sai phạm như vậy. Và cũng không có một phép mầu nào để nói “chắc như bắp” rằng nếu bỏ tiền ngân sách ra xử lý nợ nần, thua lỗ của DNNN thì chỉ cần một vài năm sau DNNN sẽ hồi phục và làm ăn có lãi, như đã từng được tuyên bố trước đây.

Tuy nhiên, nghị quyết là một chuyện, thực tế có thể là một chuyện khác. Từ góc độ của cơ quan chủ quản, của Chính phủ, nếu không được phép dùng ngân sách để xử lý nợ nần, thua lỗ của DNNN, Chính phủ chỉ còn hai lựa chọn. Một là để DNNN phá sản, đóng cửa. Hai là bằng một hình thức trá hình nào đó, Chính phủ vẫn (gián tiếp) sử dụng ngân sách để tài trợ cho các DNNN thua lỗ. Điều rõ ràng ở đây là lựa chọn thứ nhất sẽ là rất khó khăn, “nhạy cảm” về chính trị, và là điều không mong muốn (cả vì lợi ích chính trị chung của quốc gia cũng như lợi ích riêng của cá nhân, của một nhóm người liên quan).

Trong khi đó, thực hiện lựa chọn thứ hai vừa có lợi hơn trên nhiều mặt, cho một số người, mà thực ra lại không khó khăn lắm, vì ít khả năng vấp phải sự phản đối của dư luận do không dùng đến từ nhạy cảm là “sử dụng ngân sách”!

Để minh họa, hãy xem kế hoạch xử lý một số dự án thua lỗ của Bộ Công thương được công bố. Tuy các chủ dự án, các cơ quan chức năng không dám, không còn đề xuất nhà nước tiếp tục rót ngân sách để tái cấp vốn hay tăng vốn cho những DNNN thua lỗ này nữa, nhưng thay vào đó lại đưa ra nhiều kiến nghị và đề xuất mà xét cho cùng đều là lấy từ ngân sách, hoặc làm tổn hại đến ngân sách, hoặc làm tổn hại đến lợi ích công cộng.

Chẳng hạn, với Nhà máy PVTex, các đối tác của nhà máy “mong muốn Chính phủ cam kết bảo đảm quyền lợi của họ trong quá trình hợp tác, áp dụng các hàng rào kỹ thuật đối với nhập khẩu polyester, bảo đảm nguồn điện ổn định tại khu công nghiệp Đình Vũ...”. (4) Chính phủ cam kết đảm bảo quyền lợi thì cũng không khác gì một hình thức Chính phủ sẽ phải bù lỗ cho doanh nghiệp, và tất nhiên là bằng ngân sách. Áp dụng hàng rào kỹ thuật đối với nhập khẩu polyester chẳng qua là một hình thức bảo hộ, làm lợi cho doanh nghiệp và làm hại cho nền kinh tế nói chung, đồng thời gây ra xung đột thương mại với các nước đối tác. Bảo đảm nguồn điện ổn định nghe có vẻ hợp lý hơn, không dính dáng gì đến ngân sách, nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu Chính phủ vẫn phải bảo đảm cung cấp điện cho nhà máy kể cả khi nhà máy thua lỗ, không (muốn) chi trả tiền điện?

Tương tự, về phương án tài chính, phương án chung vẫn là giảm khấu hao và yêu cầu các tổ chức tín dụng khoanh nợ, giãn nợ (thông qua Ngân hàng Nhà nước). Có những nhà máy như PVTex và DAP thì lại đề nghị tiếp tục được vay (dùng) tiền của tập đoàn là Petro Vietnam hay Vinachem. Do tiền cấp/cho vay từ những tập đoàn, tổ chức tín dụng này cũng là tiền ngân sách (hoặc ngân sách sẽ phải chịu trách nhiệm khi các tập đoàn/tổ chức tín dụng này không thu hồi được vốn cho vay/cấp phát), nên rốt cuộc thì vấn đề sẽ quay trở về điểm xuất phát là không dùng ngân sách xử lý thì không xong!

Tóm lại, nhận thức về DNNN tỏ ra là đã tiến thêm được một bước quan trọng như được  thể hiện qua việc “giáng cấp” vai trò của chúng trong nền kinh tế, đi kèm với khẳng định không dùng ngân sách xử lý thua lỗ của chúng. Nhưng chắn chắn rằng việc đưa chuyển biến nhận thức này thành hành động, thành kết quả sẽ rất khó khăn, nếu không muốn nói là không thể, ít nhất là trong vài năm tới.

(1) http://cafef.vn/quoc-hoi-khong-dung-ngan-sach-xu-ly-thua-lo-cua-doanh-nghiep-20180615104506093.chn
(2) http://www.qdnd.vn/thuc-hien-hieu-qua-nghi-quyet-trung-uong-iv-khoa-xii-cua-dang/kinh-te-nha-nuoc-giu-vai-tro-chu-dao-501779
(3) http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/binh-luan-phe-phan/item/33073602-suc-thuyet-phuc-cua-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia.html
(4) http://vneconomy.vn/12-du-an-thua-lo-dang-tren-da-hoi-sinh-20180226230401355.htm

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).