Sunday, 23 December 2018

Nỗi lo “người giỏi đi hết, lấy ai làm việc”: Hãy để thị trường lên tiếng (Bài đăng trên TBKTSG, 23/12/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/td/283114/noi-lo-nguoi-gioi-di-het-lay-ai-lam-viec-hay-de-thi-truong-len-tieng-.html

Cái tin “nóng” Nhật Bản mở rộng cửa đón nhận lao động có tay nghề của Việt Nam và cho phép họ có thể cư trú dài hạn cùng gia đình đã làm dấy lên nỗi lo về nạn chảy máu chất xám, Việt Nam có thể mất người giỏi, gây thiếu hụt nguồn nhân lực.

Nỗi lo này, xét về bề nổi, là hoàn toàn dễ hiểu, dựa trên nguyên tắc “nước chảy chỗ trũng”. Điều đáng nói hơn là từ nỗi lo này có thể dẫn đến khả năng siết lại dòng chảy xuất khẩu lao động này với lý do không thể hợp lý hơn là để ngăn ngừa việc thiếu hụt lao động ở Việt Nam trong tương lai, đặc biệt là lao động có tay nghề cao, đảm bảo nguồn lực phát triển kinh tế đất nước.
Khả năng siết lại như trên thực ra là không cần thiết, và thậm chí là có hại.
Trước tiên, thử đặt giả thiết nếu Nhật không mở rộng việc thu hút lao động Việt Nam một cách chính tắc như chính sách mới đây của họ, thì Việt Nam vẫn chỉ có thể gửi lao động sang dưới dạng thực tập sinh, tu nghiệp sinh như trước đây với chế độ đãi ngộ thấp, nhập nhằng. Lúc đó, số lượng người lao động sang Nhật vẫn sẽ hạn chế, tác động tích cực về kinh tế từ việc này (kiều hối, cải thiện kỹ năng người lao động...) cũng theo đó mà không nhiều. Về phía Việt Nam, người lao động có tay nghề vẫn có khả năng bị thất nghiệp, hoặc hưởng lương thấp, hoặc không có cơ hội thăng tiến, trọng dụng...
Bởi vậy, khi Nhật mở cửa thị trường cho lao động Việt Nam thì mọi thứ đều trở nên tốt hơn, không chỉ với người lao động mà còn với nền kinh tế Việt Nam nói chung. Điều lo lắng còn lại chỉ là chuyện nếu ai cũng đi thì phải chăng Việt Nam sẽ thiếu lao động làm được việc? Và nếu vậy thì điều này có thực sự là điều xấu với Việt Nam?
Giả sử Nhật có khả năng thu hút hàng vạn lao động Việt Nam ra đi hàng năm. Và điều này được tiếp diễn năm này qua năm khác thì đương nhiên là làm cho nguồn cung lao động Việt Nam trở nên khan hiếm hơn (so với cầu trong nước), do đó lao động trở nên cao giá hơn, được “tận dụng” tốt hơn theo nghĩa tích cực.
Nhưng do chi phí lao động trong nước tăng lên và ngày càng khó kiếm lao động có kỹ năng theo yêu cầu nên doanh nghiệp trong nước buộc phải dần chuyển hướng sang những ngành nghề thâm dụng vốn và công nghệ hơn là tiếp tục sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề thâm dụng lao động (dù là lao động có kỹ năng) để tiếp tục tồn tại và phát triển. Quá trình này cũng chính là quá trình tái cơ cấu và đưa nền kinh tế lên những nấc thang phát triển cao hơn, giúp Việt Nam thoát khỏi cái bẫy thu nhập trung bình.
Cần lưu ý là sự chuyển biến trong cơ cấu kinh tế nói trên không giống như sự chuyển biến của nền kinh tế trong thời đại trí tuệ nhân tạo và cách mạng công nghiệp 4.0, Lý do là vì, sự chuyển biến khi nguồn lực lao động được sử dụng tốt (nhờ xuất khẩu lao động) hơn sẽ giúp giảm thiểu nạn thất nghiệp, nâng cao phúc lợi cho người lao động, trong khi, ngược lại, sự chuyển biến gây ra bởi máy móc tự động hóa vẫn được nhìn nhận có khả năng làm gia tăng nạn thất nghiệp và giảm sút tiền lương của người lao động.
Xu hướng co kéo trên sẽ tiếp tục cho đến thời điểm cân bằng tương đối, theo đó mức giá mà doanh nghiệp trong nước sẵn sàng trả cho lao động có tay nghề trở nên cạnh tranh được với giá mà các doanh nghiệp tại Nhật có thể trả cho lao động Việt Nam. Tại thời điểm đó, không chỉ quá trình xuất khẩu lao động với số lượng đáng kể sẽ chấm dứt mà thậm chí còn diễn ra xu hướng ngược lại. Tức là, ngày càng có nhiều lao động Nhật sang Việt Nam làm việc so với tình trạng khiêm tốn như hiện tại (nhưng chắc chắn chuyện này không phải là viễn tưởng nếu quan sát những gì đang diễn ra với lao động Hàn Quốc ở Việt Nam).
Tất nhiên quá trình chuyển biến trên có thể chỉ thuần túy là lý thuyết nhưng có một điều có thể khẳng định được là việc xuất khẩu lao động với quy mô lớn sang Nhật (hoặc bất cứ một thị trường nào khác) sẽ là tác nhân tích cực cải cách, làm gia tăng tính năng động và cạnh tranh của thị trường lao động Việt Nam, là tiền đề dẫn đến những thay đổi quan trọng khác trong nền kinh tế theo hướng tích cực.
Và một trong những nguyên tắc xương sống trong những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam tham gia, đó là cam kết tự do hóa dòng chảy lao động có tay nghề.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).