Sunday, 30 December 2018

Đẩy lùi tín dụng đen không nên và không chỉ trông chờ vào tín dụng ngân hàng! (Bài đăng trên CafeF, 29/12/2018)

http://cafef.vn/day-lui-tin-dung-den-khong-nen-va-khong-chi-trong-cho-vao-tin-dung-ngan-hang-20181229143550995.chn


Ngân hàng Nhà nước (NHNN) dự kiến sẽ triển khai gói tín dụng cho vay tín chấp 5.000 tỷ đồng do Agribank triển khai nhằm phục vụ nhu cầu vay cấp bách của người dân nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng nhằm đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi, tín dụng đen bùng phát khắp nơi hiện nay.

Lý do đưa ra gói tín dụng này có lẽ là do nhà làm chính sách kỳ vọng người dân sẽ tiếp cận được với lãi suất “hợp lý” (chắc chắn là thấp hơn lãi suất “cắt cổ” lên đến hàng trăm %/năm của tín dụng đen), từ đó thỏa mãn được một phần nhu cầu tín dụng để giải quyết những việc cấp bách của họ mà không phải vướng vào “lưới” tín dụng đen, góp phần đẩy lùi, thu hẹp quy mô tín dụng đen.

Lý do trên, nếu có, là hợp lý. Tuy nhiên, trước tiên, xét đến quy mô gói 5.000 tỷ đồng này so với nhu cầu “vay nóng” của người dân, cho mục đích cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp, có lẽ là không thấm vào đâu. Minh họa cho điều này là chỉ riêng một đường dây cho vay nặng lãi của “Công ty tài chính Nam Long” bị phát giác ở Thanh Hóa tháng 11 vừa qua đã có số tiền giao dịch với khách hàng lên tới 510 tỷ đồng, theo thông tin từ báo chí.

Do đó, về nguyên tắc, nếu muốn dùng tín dụng ngân hàng để chống tín dụng đen thì cần phải tăng quy mô gói tín dụng này lên nhiều lần nữa để đáp ứng mọi nhu cầu tín dụng “nóng” của người dân, làm cho giới cho vay nặng lãi “thất nghiệp”. Ngược lại, nếu không thực hiện được việc này thì tín dụng đen chắc chắn vẫn có đất sống.

Thế nhưng việc dồn vốn ngân hàng cho vay tín chấp là không khả thi, không thỏa đáng bởi không chỉ bởi tín dụng ngân hàng cần được ưu tiên phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh chính đáng, mà còn bởi ngân hàng thương mại không thể “nhắm mắt” cho vay bừa bãi mọi đối tượng, kể cả khi cho vay với lãi suất cao. Dù là để phục vụ mục đích mang tính xã hội cao cả là chống nạn tín dụng đen thì ngân hàng thương mại vẫn phải đặt tính “thương mại” lên hàng đầu, vẫn phải từ chối nhiều khoản cho vay mà họ biết chắc hoặc cảm thấy là không thể thu hồi được, dù là cho người dân với nhu cầu chính đáng.

Mổ xẻ tiếp về nhu cầu tín dụng đen của người dân thì có thể khẳng định rằng không phải nhu cầu nào cũng chính đáng, hợp pháp. Không ít trong số đó được dùng cho những mục đích như đánh bạc, cá cược, thậm chí để cho (đáo hạn) những khoản (cho) vay nóng/nặng lãi khác v.v… Với những mục đích này, giả sử ngân hàng thương mại có phát hiện được thì  họ sẽ (nên) không cho vay. Còn nếu không phát hiện được thì một mục đích tốt đẹp của Nhà nước như vậy sẽ bị lợi dụng, lạm dụng.

Như vậy, có thể thấy trong bất kỳ thời điểm nào, địa phương nào cũng luôn tồn tại nhu cầu tín dụng mà chỉ có thể thỏa mãn được bởi giới cho vay phi chính tắc (không phải là ngân hàng hoặc công ty tài chính có đăng ký kinh doanh hợp pháp). Vì vậy, điều mà Nhà nước cần làm để chống nạn tín dụng đen không phải là lập ra và tăng quy mô các gói tín dụng ngân hàng cho vay tín chấp.

Thay vào đó, giải pháp cần phải mang tính thị trường nhưng có sự quản lý của Nhà nước. Theo đó, khuyến khích sự thành lập của các công ty tài chính cho vay tín chấp (hoặc có tài sản thế chấp) có đăng ký kinh doanh và buộc chúng phải công khai mọi thông tin gồm có lãi suất và điều kiện cho vay – là những yếu tố nên để thị trường quyết định và Nhà nước không cần phải can thiệp bằng việc đưa ra, ví dụ, trần lãi suất cho vay tín chấp. Bởi dù có kiên quyết đưa ra áp dụng với thiện ý là tránh cho người đi vay rủi ro bị “cắt cổ” thì bên cho vay vẫn tìm cách “lách” được, thậm chí với sự thông đồng, chấp nhận của bên đi vay do bên đi vay cũng chẳng còn chỗ bấu víu nào khác nữa.

Việc công khai thông tin là quan trọng để tránh cho người vay bị ép vào “thế đã rồi”, buộc phải chấp nhận một cách bất lợi mọi điều khoản đưa ra bởi công ty tài chính khi không được biết rõ những thông tin liên quan lúc ký vào giấy vay tiền. Quy định minh bạch hóa thông tin là thiết yếu và được thực hiện ở nhiều nước. Chẳng hạn, ở Singapore, ngay gần nhà của người viết, có một công ty tài chính cho vay tín chấp đã dán ngay trên cửa ra vào con số 4%/tháng, là mức lãi suất cho vay tín chấp của họ (lưu ý là con số này cao gần gấp đôi lãi suất vay qua thẻ tín dụng áp dụng bởi các ngân hàng tại Singapore; nước này cũng không có quy định trần lãi suất hay tương tự như ở Việt Nam). Tất nhiên là trên các hợp đồng cho vay của họ đều có những thông tin liên quan theo quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho người vay so sánh và quyết định có vay của họ không. Cảnh sát Singapore thì cũng rất cảnh giác với nạn cho vay nặng lãi, cho vay không phép, nên không hiếm khi người dân sẽ được nhìn thấy biển thông báo dựng bên đường cho biết rằng cảnh sát mới bắt được đối tượng cho vay (tín dụng đen, không phép) ở trong khu vực mình sinh sống.

Đồng thời với việc minh bạch thông tin, các cơ quan thực thi pháp luật cần tăng cường theo dõi và tăng chế tài xử phạt các đối tượng cho vay có những hành động ép buộc người vay một cách bất hợp pháp như đe dọa, quấy rối, khủng bố, dùng vũ lực và nhục hình v.v…, chính là một trong những biểu hiện và hệ lụy của tín dụng đen. Cũng ở Singapore, thỉnh thoảng trên báo chí địa phương có những mẩu tin như ông A, bà B đã bị bắt vì tội quấy rối ai đó liên quan đến cho vay nặng lãi.
Tóm lại, giải pháp thích hợp và bền vững cho tín dụng đen phải là giải pháp dựa vào thị trường đặt dưới sự kiểm soát thích ứng của pháp luật để nhu cầu vay tín chấp của người dân được thỏa mãn chủ yếu bởi người dân khác và các tổ chức tài chính hợp pháp.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).