Friday, 21 August 2020

Gói hỗ trợ kinh tế lần 2 cần được thiết kế thế nào? (Bài đăng trên CafeF, 22/8/2020)

https://cafef.vn/goi-ho-tro-kinh-te-lan-2-can-duoc-thiet-ke-the-nao-20200822080837216.chn

Do dịch Covid-19 đã quay trở lại, tiếp tục làm khó nền kinh tế và đời sống người dân nên một gói hỗ trợ kinh tế lần 2 đang được đề xuất. Trước ảnh hưởng ngày càng lớn của tình hình dịch bệnh, người ta cho rằng cần có các chính sách kinh tế đủ mạnh, vượt hơn mức bình thường thì mới phục hồi được nền kinh tế.

Theo đó, chính sách lần 2 phải bao quát toàn diện các đối tượng, phải đủ lớn, đủ mạnh để tác động ngay, kích thích tăng trưởng kinh tế. Các chính sách đều phải gắn đến quản lý cơ cấu các ngành, lĩnh vực, phải gắn với tái cơ cấu và những lĩnh vực liên quan. Gói hỗ trợ phải đảm bảo đa mục tiêu chứ không chỉ kích thích tăng trưởng kinh tế.

Cụ thể hơn, ngoài hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, người lao động và người dân chịu ảnh hưởng của dịch bệnh, cần hỗ trợ các doanh nghiệp lớn đang gặp khó khăn về sự thiếu hụt dòng tiền do chi phí cố định và chi phí duy trì hoạt động lớn trong khi doanh thu bị sụt giảm nghiêm trọng.
Như vậy, có thể nói gói hỗ trợ lần 2 nếu được thiết kế và thực hiện theo đề xuất trên thì sẽ hầu như hỗ trợ mọi đối tượng, mọi chủ thể kinh tế, từ cá nhân đến doanh nghiệp, từ doanh nghiệp vừa và nhỏ đến doanh nghiệp lớn.  

Nếu “xông xênh” như thế thì e chẳng có gói hỗ trợ nào kham nổi trên quy mô hầu như cả nền kinh tế như vậy, nhất là khi phải hỗ trợ “đến nơi đến chốn” chứ không làm theo kiểu “gọi là cho có”. Điều này buộc người thiết kế gói hỗ trợ lần 2 phải chọn lựa đối tượng ưu tiên hỗ trợ và hỗ trợ đủ mức để đạt hiệu quả mong muốn.

Nhưng trước khi chọn lựa đối tượng ưu tiên hỗ trợ thì cần trả lời mục đích hỗ trợ là gì? Có hai mục đích hỗ trợ cần xem xét ở đây. Đó là “trao con cá” và “trao cần câu”. Trong bối cảnh khó khăn tứ bề, nhu cầu tồn tại vượt lên tất cả các nhu cầu khác thì dễ hiểu mục đích hỗ trợ ưu tiên trước hết phải là “trao con cá”, tức giúp cho người dân, người lao động trước mắt có cơm ăn mà không bị đứt bữa, không phải ăn mì gói triền miên; doanh nghiệp có tiền để cầm cự không phải đóng cửa trong những tháng tới trong khi chờ đợi có vaccin phòng chống Covid-19.

Dựa trên mục đích hỗ trợ ưu tiên như trên, có thể thấy đối tượng hỗ trợ ưu tiên phải là những cá nhân và doanh nghiệp dễ và đã bị tổn thương nhiều nhất bởi dịch bệnh. Đó là công nhân lao động, hộ nghèo, người thất nghiệp, lao động tự do. Về đối tượng là doanh nghiệp, đó là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, là những doanh nghiệp thường hầu như không có nguồn lực dự trữ và khả năng tiếp cận các nguồn lực khác.

Đối với doanh nghiệp lớn, tuy cũng có khó khăn nhưng ít ra thì chúng cũng còn có các cách xoay xở so với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, nếu muốn hỗ trợ cả doanh nghiệp lớn thì vẫn phải đảm bảo nguyên tắc đối xử công bằng. Nhưng như vậy thì, như đã nói ở trên, sẽ chẳng bao giờ có đủ nguồn lực để cứu trợ “xông xênh” cho tất cả các doanh nghiệp lớn như thế được.

Thay vào đó, hãy để các doanh nghiệp lớn tự tái cơ cấu để phù hợp với hoàn cảnh mới. Việc tái cơ cấu có thể sẽ dẫn đến những hậu quả không mong muốn như sa thải người lao động. Đến đây thì gói hỗ trợ sẽ phát huy tác dụng bằng cách hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp lớn (cũng như cách mà nó hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ và người lao động khác) thông qua việc nhà nước trả một phần lương cho người lao động để doanh nghiệp tìm cách giữ người, hoặc trợ cấp cho người lao động khi bị sa thải. Doanh nghiệp giữ được người cũng chính là được trao thêm cơ hội để hồi phục trong và sau đại dịch.

Việc giảm đại trà các loại thuế, phí và các loại chi phí cần thiết cho sinh hoạt của người dân và hoạt động của doanh nghiệp là điều cần cân nhắc, chí ít bởi làm như vậy sẽ vi phạm nguyên tắc cứu trợ đúng đối tượng cần cứu trợ. Trong số những đối tượng được hưởng lợi ích giảm thuế, phí, chi phí sẽ có cả không ít những đối tượng khỏe mạnh, không bị ảnh hưởng, thậm chí hưởng lợi nhờ dịch bệnh. Nên đương nhiên, một lần nữa, gói cứu trợ lần 2 nếu có gồm giải pháp cắt giảm thuế, phí, chi phí thì chỉ được thực hiện với những đối tượng đáng cứu trợ như đã đề cập ở trên, hoặc một số đối tượng doanh nghiệp được khuyến khích phát triển ngay cả trong “thời bình” như các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Với mục đích cứu trợ “trao cần câu”, thường thì nhiều người chỉ nghĩ được đến giải pháp cho vay ưu đãi, với lãi suất thấp. Nhưng cũng tương tự như việc cho người dân nghèo vay vốn, nhiều khi tiền vốn cho vay lại được dùng để ăn nhậu, mua sắm đồ đạc mà không (biết) dùng vào việc gì cho có lợi hơn.

Kinh nghiệm đối phó với khủng hoảng ở nước ngoài cũng hữu ích đối với Việt Nam trong vấn đề này. Chẳng hạn, Chính phủ Singapore sẵn sàng trả trợ cấp (khoảng hơn 180 ngàn đồng/giờ) cho người lao động mất việc đi học các khóa học chuyển đổi hoặc nâng cao nghề nghiệp, kỹ năng do Chính phủ tài trợ. Bằng cách làm như vậy, Chính phủ không phải lo thu xếp một nguồn vốn khổng lồ để cho vay doanh nghiệp với nhu cầu vô tận (do đặc tính ưu đãi của nó) mà còn giúp cho người lao động – là cái đích tối thượng cho mọi gói cứu trợ - có được tiền để tồn tại trong khi có cơ hội tìm việc làm mới, phù hợp hơn, đồng thời vẫn giúp cho doanh nghiệp có được “cần câu cá” là nguồn nhân lực có kỹ năng tốt hơn, hiệu suất cao hơn.

Việc cắt giảm có chọn lọc các loại thuế, phí, chi phí cũng là cách để giúp doanh nghiệp có thêm “cần câu”, phương tiện, nguồn lực phục hồi, phát triển mà không nhất thiết cứ đòi nhà nước phải cấp vốn ưu đãi.

Lại nói về cho vay ưu đãi, là cái đã được nhắc đến nhiều ở Việt Nam trong thời gian qua, chủ yếu liên quan đến một số doanh nghiệp lớn. Kinh nghiệm nước ngoài thường được nhiều người mang ra để vận động cho việc cho vay này. Nhưng có một thực tế mà không ai đả động đến, đó là việc một số Chính phủ nước ngoài hoặc là để cho ngay cả những doanh nghiệp đình đám như các hãng hàng không quốc gia bị phá sản, như Thai Airways, hoặc là việc cho vay thực chất chỉ là việc nhà nước mua cổ phần của doanh nghiệp với giá rẻ (như Chính phủ Đức bơm cho hãng hàng không Lufthansa 10 tỷ USD để đổi lấy 20% cổ phần với giá chiết khấu lớn so với thị giá). 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).