Chính phủ vừa
công bố dự thảo Quyết định của Thủ tướng về hạn mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi,
theo đó số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm
theo quy định của Luật bảo hiểm tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân tại
một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tối đa là 125 triệu đồng, tăng thêm 50
triệu đồng so với mức hiện tại được áp dụng từ tháng 8/2017.
Việc dự thảo sửa
đổi hạn mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi như trên là theo quy định tại Khoản 2 Điều
24 Luật Bảo hiểm tiền gửi, theo đó Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức trả tiền
bảo hiểm theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong từng thời kỳ. Từ ngày
05/8/2017, số tiền bảo hiểm được trả cho
tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi
(gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
tối đa là 75 triệu đồng. Mức này đã tăng lên từ các mức thấp hơn trước đó, như 30
triệu đồng năm 1999.
Xung quanh Luật Bảo
hiểm tiền gửi nói chung và quy định về mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi nói riêng
có một số vấn đề mà nhiều người dân vẫn chưa hoàn toàn hiểu rõ.
Thứ nhất, tại
sao phải điều chỉnh (tăng) mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi từng thời kỳ?
Trong dự thảo hay
các văn bản liên quan đều không có giải thích cho việc điều chỉnh này. Nhưng có
thể thấy lạm phát là một trong số những lý do đằng sau sự điều chỉnh này. Lạm
phát sẽ làm cho giá trị danh nghĩa của tài sản của người gửi tiền tăng lên
trong khi giá trị thực không nhất thiết tăng tương ứng. Nếu vẫn giữ nguyên mức
chi trả 30, 50, hoặc 75 triệu đồng như trước cho người gửi tiền với cùng một
khoản tiền không đổi (đã điều chỉnh theo lạm phát) thì rõ ràng phần thiệt là
nghiêng hẳn về phía người gửi tiền khi có “biến” xảy ra. Và đồng nghĩa với điều
này là người gửi tiền ít an tâm, ít động lực hơn để gửi tiền vào hệ thống ngân
hàng do không còn được bồi thường đáng kể so với số tiền mình gửi vào ngân hàng
khi ngân hàng mất khả năng thanh toán.
Lý do khác cho việc
phải điều chỉnh mức chi trả cũng liên quan đến chuyện an tâm của người gửi tiền.
Tùy theo từng giai đoạn, nếu người gửi tiền thấy có nhiều rủi ro hơn cho hệ thống
ngân hàng trong một thời điểm nào đó thì việc điều chỉnh nâng hạn mức chi trả bảo
hiểm tiền gửi là cần thiết để khuyến khích người gửi tiền an tâm hơn khi gửi tiền
vào ngân hàng.
Vấn đề thứ hai là
mức chi trả bảo hiểm 125 triệu đồng theo dự thảo này là phù hợp hay không. Để
có câu trả lời, hãy tham khảo thực tế ở một số nước. Ở Singapore, mức chi trả bảo
hiểm tối đa là 75.000 đô la Singapore (tương đương khoảng 1,267 tỷ đồng theo tỷ
giá hiện tại). Ở Mỹ, mức này là 250.000 đô la Mỹ (5,8 tỷ đồng). Các nước khác
trong khu vực có mức cụ thể quy đổi ra tiền đồng là: 3,1 tỷ đồng (Indonesia),
1,368 tỷ đồng (Malaysia), 236 triệu đồng (Philippines), 1,55 tỷ đồng (Ấn Độ), và 3,691 tỷ (Thái Lan)... Cũng
có những nước không giới hạn mức chi trả tối đa như Myanmar, tức là Chính phủ sẽ
bồi thường toàn bộ tiền gửi nếu ngân hàng phá sản.
Như vậy, xem ra mức
chi trả bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam kể cả sau khi đã điều chỉnh tăng lên 125
triệu là thấp, rất thấp so với thế giới và khu vực. Mức thu nhập bình quân đầu
người thấp hay trạng thái phát triển kinh tế yếu kém có lẽ không phải là lý do
vì những nước khu vực có mức thu nhập thuộc nhóm trung bình thấp như Myanmar, Ấn
Độ, Indonesia và Philippines cũng vẫn có mức chi trả cao hơn Việt Nam nhiều (lần).
Ngoài ra, xét về tương quan giữa số tiền gửi với mức được bồi thường, tuy không
có số liệu cụ thể nhưng chỉ nói đơn giản là số người gửi tiền tỷ ở Việt Nam hiện
nay (tương đương với vài chục ngàn đô la Mỹ) không hiếm nhưng rõ ràng số tiền họ
có thể nhận được khi ngân hàng mình gửi tiền phá sản chỉ là 125 triệu đồng là
không hợp lẽ cho lắm khi so sánh với thế giới.
Vấn đề thứ ba
chưa được nhiều người hiểu rõ là mức chi trả bảo hiểm tối đa 125 triệu đồng này
được tính như thế nào cho từng cá nhân người gửi tiền. Có thể lý do cho sự
không hiểu này là do Luật Bảo hiểm tiền gửi và các quy định liên quan không giải
thích rõ.
Cũng giống như ở
các nước khác, ở Việt Nam, nếu người gửi tiền gốc và lãi tại một ngân hàng có tổng
cộng là, ví dụ, 100 triệu đồng, thì số tiền nhận được từ Bảo hiểm tiền gửi sẽ
là 100 triệu. Nếu tổng này là 1 tỷ đồng thì người này sẽ chỉ nhận được tối đa 125
triệu.
Liên quan đến mức
chi trả tối đa này, chắc chắn sẽ có nhiều người “sáng kiến” nghĩ rằng vậy thì
ta sẽ chỉ gửi tối đa ở một ngân hàng là, chẳng hạn, 115 triệu đồng (để sao cho
cộng cả gốc lẫn lãi không vượt quá 125 triệu đồng). Như vậy thì dù ngân hàng có
phá sản, người gửi tiền vẫn hoàn toàn an tâm về tài sản của mình sẽ không bị sứt
mẻ đồng nào.
Điều này là
đúng... nhưng cần phải cân nhắc thêm mấy yếu tố. Trước tiên là số tiền mình có và
định gửi vào ngân hàng. Nếu định gửi tiền (nhiều) tỷ thì cách này hơi... bất tiện!
Lúc đó, người gửi sẽ phải tìm các ngân hàng khác để gửi mỗi nơi một ít (không quá 115 triệu đồng).
Tiếp đó, các ngân hàng khác có lãi suất
như thế nào? Nếu thấp quá, không hấp dẫn, trong khi “theo tính toán của mình”
thì ngân hàng mình định gửi không quá rủi ro nhưng lãi suất lại hơn hẳn các nơi
khác thì “dại gì không gửi” tất cả/phần lớn số tiền mình có và định gửi, dù chỉ
được bảo hiểm tối đa 125 triệu đồng?
Như vậy, cũng giống
như nhà đầu tư chuyên nghiệp nhìn vào xếp hạng tín dụng của các nhà phát hành
chứng khoán, trái phiếu để quyết định rót vốn đầu tư tùy theo khẩu vị rủi ro của
mình, người gửi tiền ở Việt Nam cũng cần phải cân nhắc giữa mức độ rủi ro của
ngân hàng định gửi tiền, số tiền mình có, và khẩu vị rủi ro của mình để quyết định
có gửi vào ngân hàng đó không và gửi bảo nhiêu, với nhận thức rõ rằng trong trường
hợp xấu thì chỉ nhận lại được tối đa là 125 triệu đồng từ Bảo hiểm tiền gửi.
Trên hết, NHNN và
Chính phủ cũng cần cân nhắc nâng mạnh hơn nữa mức chi trả bảo hiểm tối đa để
phù hợp với mức hiện tại trong khu vực và trên thế giới.
No comments:
Post a Comment