Saturday, 8 August 2020

Người gửi tiền vẫn chưa thể an tâm (Bài đăng trên TBKTSG, 8/8/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/306746/nguoi-gui-tien-van-chua-the-an-tam.html


Chính phủ vừa công bố dự thảo Quyết định của Thủ tướng về hạn mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi, theo đó số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của Luật bảo hiểm tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tối đa là 125 triệu đồng, tăng thêm 50 triệu đồng so với mức hiện tại được áp dụng từ tháng 8/2017.

Việc dự thảo sửa đổi hạn mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi như trên là theo quy định tại Khoản 2 Điều 24 Luật Bảo hiểm tiền gửi, theo đó Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong từng thời kỳ. Từ ngày  05/8/2017, số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tối đa là 75 triệu đồng. Mức này đã tăng lên từ các mức thấp hơn trước đó, như 30 triệu đồng năm 1999.

Xung quanh Luật Bảo hiểm tiền gửi nói chung và quy định về mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi nói riêng có một số vấn đề mà nhiều người dân vẫn chưa hoàn toàn hiểu rõ. 

Thứ nhất, tại sao phải điều chỉnh (tăng) mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi từng thời kỳ?

Trong dự thảo hay các văn bản liên quan đều không có giải thích cho việc điều chỉnh này. Nhưng có thể thấy lạm phát là một trong số những lý do đằng sau sự điều chỉnh này. Lạm phát sẽ làm cho giá trị danh nghĩa của tài sản của người gửi tiền tăng lên trong khi giá trị thực không nhất thiết tăng tương ứng. Nếu vẫn giữ nguyên mức chi trả 30, 50, hoặc 75 triệu đồng như trước cho người gửi tiền với cùng một khoản tiền không đổi (đã điều chỉnh theo lạm phát) thì rõ ràng phần thiệt là nghiêng hẳn về phía người gửi tiền khi có “biến” xảy ra. Và đồng nghĩa với điều này là người gửi tiền ít an tâm, ít động lực hơn để gửi tiền vào hệ thống ngân hàng do không còn được bồi thường đáng kể so với số tiền mình gửi vào ngân hàng khi ngân hàng mất khả năng thanh toán.

Lý do khác cho việc phải điều chỉnh mức chi trả cũng liên quan đến chuyện an tâm của người gửi tiền. Tùy theo từng giai đoạn, nếu người gửi tiền thấy có nhiều rủi ro hơn cho hệ thống ngân hàng trong một thời điểm nào đó thì việc điều chỉnh nâng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi là cần thiết để khuyến khích người gửi tiền an tâm hơn khi gửi tiền vào ngân hàng.

Vấn đề thứ hai là mức chi trả bảo hiểm 125 triệu đồng theo dự thảo này là phù hợp hay không. Để có câu trả lời, hãy tham khảo thực tế ở một số nước. Ở Singapore, mức chi trả bảo hiểm tối đa là 75.000 đô la Singapore (tương đương khoảng 1,267 tỷ đồng theo tỷ giá hiện tại). Ở Mỹ, mức này là 250.000 đô la Mỹ (5,8 tỷ đồng). Các nước khác trong khu vực có mức cụ thể quy đổi ra tiền đồng là: 3,1 tỷ đồng (Indonesia), 1,368 tỷ đồng (Malaysia), 236 triệu đồng (Philippines), 1,55 tỷ  đồng (Ấn Độ), và 3,691 tỷ (Thái Lan)... Cũng có những nước không giới hạn mức chi trả tối đa như Myanmar, tức là Chính phủ sẽ bồi thường toàn bộ tiền gửi nếu ngân hàng phá sản.

Như vậy, xem ra mức chi trả bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam kể cả sau khi đã điều chỉnh tăng lên 125 triệu là thấp, rất thấp so với thế giới và khu vực. Mức thu nhập bình quân đầu người thấp hay trạng thái phát triển kinh tế yếu kém có lẽ không phải là lý do vì những nước khu vực có mức thu nhập thuộc nhóm trung bình thấp như Myanmar, Ấn Độ, Indonesia và Philippines cũng vẫn có mức chi trả cao hơn Việt Nam nhiều (lần). Ngoài ra, xét về tương quan giữa số tiền gửi với mức được bồi thường, tuy không có số liệu cụ thể nhưng chỉ nói đơn giản là số người gửi tiền tỷ ở Việt Nam hiện nay (tương đương với vài chục ngàn đô la Mỹ) không hiếm nhưng rõ ràng số tiền họ có thể nhận được khi ngân hàng mình gửi tiền phá sản chỉ là 125 triệu đồng là không hợp lẽ cho lắm khi so sánh với thế giới.

Vấn đề thứ ba chưa được nhiều người hiểu rõ là mức chi trả bảo hiểm tối đa 125 triệu đồng này được tính như thế nào cho từng cá nhân người gửi tiền. Có thể lý do cho sự không hiểu này là do Luật Bảo hiểm tiền gửi và các quy định liên quan không giải thích rõ.

Cũng giống như ở các nước khác, ở Việt Nam, nếu người gửi tiền gốc và lãi tại một ngân hàng có tổng cộng là, ví dụ, 100 triệu đồng, thì số tiền nhận được từ Bảo hiểm tiền gửi sẽ là 100 triệu. Nếu tổng này là 1 tỷ đồng thì người này sẽ chỉ nhận được tối đa 125 triệu.

Liên quan đến mức chi trả tối đa này, chắc chắn sẽ có nhiều người “sáng kiến” nghĩ rằng vậy thì ta sẽ chỉ gửi tối đa ở một ngân hàng là, chẳng hạn, 115 triệu đồng (để sao cho cộng cả gốc lẫn lãi không vượt quá 125 triệu đồng). Như vậy thì dù ngân hàng có phá sản, người gửi tiền vẫn hoàn toàn an tâm về tài sản của mình sẽ không bị sứt mẻ đồng nào.     

Điều này là đúng... nhưng cần phải cân nhắc thêm mấy yếu tố. Trước tiên là số tiền mình có và định gửi vào ngân hàng. Nếu định gửi tiền (nhiều) tỷ thì cách này hơi... bất tiện! Lúc đó, người gửi sẽ phải tìm các ngân hàng khác để  gửi mỗi nơi một ít (không quá 115 triệu đồng). Tiếp đó,  các ngân hàng khác có lãi suất như thế nào? Nếu thấp quá, không hấp dẫn, trong khi “theo tính toán của mình” thì ngân hàng mình định gửi không quá rủi ro nhưng lãi suất lại hơn hẳn các nơi khác thì “dại gì không gửi” tất cả/phần lớn số tiền mình có và định gửi, dù chỉ được bảo hiểm tối đa 125 triệu đồng?

Như vậy, cũng giống như nhà đầu tư chuyên nghiệp nhìn vào xếp hạng tín dụng của các nhà phát hành chứng khoán, trái phiếu để quyết định rót vốn đầu tư tùy theo khẩu vị rủi ro của mình, người gửi tiền ở Việt Nam cũng cần phải cân nhắc giữa mức độ rủi ro của ngân hàng định gửi tiền, số tiền mình có, và khẩu vị rủi ro của mình để quyết định có gửi vào ngân hàng đó không và gửi bảo nhiêu, với nhận thức rõ rằng trong trường hợp xấu thì chỉ nhận lại được tối đa là 125 triệu đồng từ Bảo hiểm tiền gửi.

Trên hết, NHNN và Chính phủ cũng cần cân nhắc nâng mạnh hơn nữa mức chi trả bảo hiểm tối đa để phù hợp với mức hiện tại trong khu vực và trên thế giới.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).