Sunday, 16 August 2020

Không dễ hiểu được quyết định hạ lãi suất (Bài đăng trên TBKTSG, 15/8/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/306986/khong-de-hieu-duoc-quyet-dinh-ha-lai-suat.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã giảm lãi suất đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND của các tổ chức tín dụng (TCTD) 0,5 điểm phần trăm, xuống 0,5%/năm. Lãi suất tiền gửi bằng VND của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách Xã hội, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô; lãi suất tiền gửi của Kho bạc Nhà nước, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam tại NHNN bằng VND giảm 0,2 điểm phần trăm xuống 0,8%/năm.

Là nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ?

Quyết định trên của NHNN được nhiều người nhìn nhận là một hành động nới lỏng tiền tệ. Thực ra thì hiểu và lý giải thế chưa hoàn toàn đúng. Tiền được trả/bơm ra từ NHNN luôn có thể được hiểu là nguồn cung tiền tăng thêm cho nền kinh tế. Khi NHNN cắt giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc thì đồng nghĩa với đó là tiền lãi TCTD được hưởng/thu về từ NHNN sẽ sụt giảm đi so với trước, tức là cung tiền của NHNN ra nền kinh tế sẽ giảm tốc so với trước. Nói cách khác, mức độ nới lỏng của chính sách tiền tệ của NHNN sẽ thu hẹp lại – tuy tiền vẫn được bơm thêm ra nhưng ở mức độ ít hơn trước, nếu các yếu tố khác không thay đổi. (Lưu ý là điều này khác với thắt chặt chính sách tiền tệ, là rút bớt tiền về).

Tương tự như vậy là lãi suất tiền gửi bằng VND của một số TCTD, Kho bạc Nhà nước và Bảo hiểm tiền gửi. Tiền gửi này không phải là tiền gửi dự trữ bắt buộc của TCTD tại NHNN nên đương nhiên được hưởng một lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc (0,8%/năm so với 0,5%/năm). Tuy nhiên, do lãi suất tiền gửi này bị cắt giảm từ 1%/năm xuống 0,8%/năm nên cũng có thể nói rằng chính sách tiền tệ của NHNN sẽ bớt nới lỏng hơn so với trước, nếu mọi yếu tố khác không thay đổi.
Do đó, việc một số người gắn hành động hạ lãi suất nói trên của NHNN với xu hướng các TCTD tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất huy động trên thị trường (1) là rất khiên cưỡng. Xu hướng giảm lãi suất này có thể do những nguyên nhân khác chứ chắc chắn không phải là do hành động trên của NHNN, vì hiệu ứng ngược của nó như đã phân tích.

Về phía NHNN, lý giải động thái hạ lãi suất tiền gửi nói trên của mình, NHNN cho biết việc này sẽ “tác động giảm các loại lãi suất khác trên thị trường” (2). Nhưng, như đã được chỉ ra ở trên, việc giảm tốc nới lỏng chính sách tiền tệ thực ra sẽ cản trở việc cắt giảm các loại lãi suất khác trên thị trường chứ không phải là ngược lại. 

Sẽ thúc đẩy TCTD đưa vốn ra nền kinh tế?

Bên cạnh mục đích hạ mặt bằng lãi suất, hành động của NHNN còn được cho là sẽ thúc đẩy các ngân hàng đưa vốn ra nền kinh tế (2). Dường như người ta cho rằng hiệu ứng này sẽ nảy sinh khi tiền gửi của TCTD tại NHNN sẽ giảm đi vì lãi suất thấp hơn, kém hấp dẫn hơn, buộc TCTD phải rút bớt tiền gửi NHNN về để cho vay ra nền kinh tế, nếu không muốn “ế” vốn.

Tuy nhiên, cần lưu ý lại rằng NHNN hạ lãi suất trước hết là đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc. Có nghĩa là dù TCTD muốn hay không, lãi suất có hấp  dẫn hay không thì TCTD vẫn buộc phải gửi, theo quy định, một tỷ lệ nhất định vốn huy động của mình tại NHNN, chứ không có lựa chọn nào khác, ví dụ, có gửi hay không, gửi bao nhiêu và trong thời gian bao lâu. (Lưu ý là có chuyên gia đã sai lầm khi nói rằng TCTD “có thể điều chỉnh quy mô lượng dự trữ bắt buộc” (2)).

Mà như đã nói ở trên, do chỉ được hưởng một lãi suất thấp hơn từ NHNN sau đợt điều chỉnh này nên thực ra lượng tiền mà TCTD sẵn sàng cho vay ra nền kinh tế (gồm tiền lãi trả bởi NHNN) sẽ là ít hơn so với trước đây, nếu mọi yếu tố khác không thay đổi.

Ngay cả đối với tiền gửi của các tổ chức khác tại NHNN như của Bảo hiểm tiền gửi, Kho bạc Nhà nước... thì tuy đây không phải là tiền gửi bắt buộc trên nghĩa đen nhưng vẫn là bắt buộc trên thực tế do pháp luật hiện hành yêu cầu, quy định như vậy. Chẳng hạn, các tổ chức này không được gửi (một số loại) tiền tại các TCTD mà phải gửi tại NHNN. Bởi vậy, khi lãi suất đối với loại tiền gửi này giảm đi thì đương nhiên là lượng tiền mà các tổ chức này có trong tay để cho vay ra nền kinh tế sẽ giảm đi so với trước.

Công cụ tiền tệ không còn tác dụng nữa?

Ở chiều hướng ngược lại, có người cho rằng quyết định của NHNN cũng cho thấy cơ quan này không còn nhiều lựa chọn và đã sử dụng gần hết những công cụ đang có. Việc hạ lãi suất mang tính tâm lý hơn kinh tế. “Công cụ tiền tệ đã không còn tác dụng nữa” (2).

Có lẽ ý kiến này xuất phát từ hiểu biết rằng TCTD không cho vay được ra nền kinh tế nên mới phải gửi vào NHNN để hưởng lãi; nên NHNN phải hạ lãi suất tiền gửi tại NHNN để khuyến khích/buộc TCTD tăng cường cho vay nền kinh tế thay vì đem gửi NHNN.

Như nói ở trên, việc gửi tiền ở NHNN thường không phải là chủ đích của TCTD mà thường là do “bắt buộc” nên việc gửi tiền ở đây chỉ là “đặng chẳng đừng”. Do đó, việc NHNN hạ lãi suất tiền gửi tại NHNN không có nghĩa là TCTD không cho vay được ra nền kinh tế và chính sách, công cụ tiền tệ không còn tác dụng nữa. Bằng chứng tối thiểu là vẫn có tăng trưởng tín dụng dương (đáng kể chứ không quá thấp, kể cả so với khu vực và thế giới); lãi suất huy động vẫn neo cao chứ không tụt đột ngột (và xuống quá thấp). 

Để cắt giảm chi phí?

Một số lãnh đạo ngân hàng cho rằng việc hạ lãi suất các khoản tiền gửi tại NHNN chỉ là động thái giảm chi cho ngân sách. Vì thực tế, bên phải trả lãi suất cho lượng tiền gửi dự trữ bắt buộc là NHNN, hay nói cách khác là tiền Ngân sách Nhà nước (2).

Cần lưu ý rằng Ngân sách Nhà nước với ngân sách của NHNN là hai điều đôc lập với nhau trên nguyên tắc. Có nghĩa là khoản thu/chi của NHNN không phải là thu/chi của Ngân sách Nhà nước. Nên khoản tiền “tiết kiệm” được từ việc cắt giảm lãi suất tiền gửi tại NHNN không đồng nghĩa với việc Ngân sách Nhà nước tránh được việc phải chi ra một khoản tương ứng.

Cũng có luồng ý kiến cho rằng quyết định giảm lãi suất mới đây của NHNN nhằm mục tiêu chủ yếu là giảm chi phí hoạt động cho NHNN (3).

Nếu NHNN là một doanh nghiệp, một ngân hàng thương mại thông thường thì hiểu thế cũng không sai. Nhưng ở đây NHNN là ngân hàng trung ương, không phải hạch toán lợi nhuận; nguồn tài trợ cho chi phí hoạt động không phải đến từ việc kinh doanh nguồn tiền gửi của TCTD và các chủ thể kinh tế khác. Do đó, NHNN không phải tìm cách cắt giảm chi phí hoạt động bằng cách, ví dụ, cắt giảm lãi phải trả cho TCTD.

Ngoài ra, đã gọi là dự trữ bắt buộc thì NHNN có quyền áp dụng bất cứ lãi suất nào cho số tiền gửi này (và mọi khoản tiền gửi khác tại NHNN nói chung). Do vậy, nếu hiểu theo ý ở trên thì NHNN lẽ ra phải luôn luôn duy trì lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc là 0%/năm từ trước đến nay để “tiết kiệm” chi phí hoạt động, chứ không việc gì phải duy trì lãi suất tới vài ba phần trăm/năm như trước đây.

(3) https://cafef.vn/vi-sao-nhnn-giam-lai-suat-du-tru-bat-buoc-20200808112852216.chn

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).