Sunday, 16 May 2021

Khủng hoảng chip và có cơ hội nào dành cho sản xuất chip tại Việt Nam (Bài đăng trên Đầu tư, 16/5/2021)

https://baodautu.vn/khung-hoang-chip-va-co-co-hoi-nao-danh-cho-san-xuat-chip-tai-viet-nam-d142865.html

Thiếu hụt nguồn cung nghiêm trọng chip ảnh hưởng đặc biệt nặng nề lên các hãng ô tô và các hãng công nghệ trên khắp thế giới. Giải pháp được nhiều người nghĩ ngay đến là xây mới và/hoặc tăng năng lực sản xuất chip. Ở Việt Nam cũng có những đề xuất, ý tưởng tương tự như vậy.

Tuy nhiên, việc xây dựng mới hoặc gia tăng năng lực sản xuất hiện tại chip không dễ thực hiện ngay và luôn, và, vì thế, cuộc khủng hoảng chip toàn cầu sẽ còn kéo dài ít nhất sang đến 2022.

Khó và rất tốn kém

Lý do đầu tiên là sản xuất chip là rất khó vì nó đòi hỏi mức độ tinh vi cao độ, với những lớp phủ vật liệu có độ dầy có khi chỉ bằng một nguyên tử, với các mạch in được chế tạo bằng cách dùng tia siêu cực tím để đốt cháy phôi thành các vật liệu đọng lại trên tấm nền silicon. Đây là những kỹ thuật thường chỉ xảy ra một cách tự nhiên trong vũ trụ.

Bởi vậy, sản xuất chip cần nhiều thời gian để xây dựng và lắp đặt thiết bị cho các nhà máy sản xuất chip (ít nhất 2 năm), cùng hàng tỷ USD vốn đầu tư. Sản xuất một con chip cụ thể thường cần khoảng hơn 3 tháng hoặc hơn, tùy vào độ phức tạp, và được tiến hành trong những nhà máy khổng lồ, những phòng sản xuất tuyệt đối sạch, không có bụi.

Về chi phí, để xây dựng một nhà máy thuộc hạng “entry” có côn suất 50.000 tấm nền silicon (wafer)/tháng thì cần đầu tư chừng 15 tỷ USD, chủ yếu là các thiết bị chuyên dụng. Những máy móc tiên tiến nhất có giá thậm chí trên 100 triệu USD và phải chuyên chở để lắp rắp bằng nhiều chuyến Boeing 747. 3 hãng sản xuất chip lớn nhất thế giới là Intel, Samsung và TSMC (Đài Loan) chiếm phần lớn trong tổng đầu tư vào ngành sản xuất chip thế giới, với mỗi nhà máy của họ có mức đầu tư tới hơn 20 tỷ USD.

Trong ngành sản xuất chip, để không bị thua lỗ thì phải đạt tỷ lệ thành phẩm đạt tiêu chuẩn trên 90% lượng sản phẩm sản xuất ra, một con số chỉ đạt được sau quá trình học sửa sai tốn kém. Lý do này và những lý do trên giải thích tại sao chỉ có một vài hãng sản xuất là tiếp tục chi phố ngành sản xuất chip. Phần lớn trong số bộ vi xử lý của 1,4 tỷ điện thoại thông minh tiêu thụ trên thế giới là được tạo ra bởi TSMC. Intel thì nắm 80% thị trường bộ vi xử lý máy tính. Samsung thì chiếm lĩnh thị trường chip nhớ. Những nhà sản xuất còn lại, gồm có từ Trung Quốc, khó có thể phá vỡ được sự sắp đặt này.

Do yêu cầu cao như vậy nên nhiều nước muốn tự chủ về chip mà không được. Tổng thống Mỹ Biden cam kết dành 50 tỷ USD như là một phần của gói xây dựng cơ sở hạ tầng 2,3 nghìn tỷ USD để nâng cao năng lực sản xuất, đạt được sự tự chủ về chip tại Mỹ. Cộng đồng chung châu Âu (EC) cũng có kế hoạch sản xuất chip riêng của mình. Nhưng thành công của những kế hoạch này chẳng có gì đảm bảo.

Hiệp hội Công nghiệp bán dẫn ước tính tham vọng trên của Mỹ phải cần đến khoản đầu tư và các hỗ trợ khác của Chính phủ trị giá đến 1.400 tỷ USD, và trong khoản thời gian trên một thập kỷ mới có thể hoàn thành. Nên khoản cam kết 50 tỷ USD của Biden quá nhỏ để có thể mang lại hiệu quả đáng kể.

Thiếu hụt chủ yếu chip cấp thấp

Một đặc điểm trong cơn khủng hoảng chip hiện nay là sự thiếu hụt các chip cấp thấp. Các hãng sản xuất chip lớn thế giới đang nỗ lực chạy đua sản xuất các chip tiên tiến dùng cho những sản phẩm và công nghệ như 5G và máy chủ. Năm 2020, 27% vốn đầu tư vào thiết bị sản xuất chip là dành cho sản xuất các loại chip tiên tiến nhất. Chỉ có dưới 11% vốn đầu tư này là vào các loại chip thương mại thông thường. 

Xu hướng đầu tư thiên lệch này làm cho các nhà sản xuất không trở tay kịp với sự thiếu hụt các chip cơ bản dùng trong các sản phẩm thấp cấp hơn về công nghệ như ô tô, màn hình máy tính, loa và đồ điện gia dụng – những sản phẩm mà nhu cầu của chúng đã tăng vọt trong đại dịch. Việc dịch chuyển năng lực sản xuất chip cao cấp sang thấp cấp hơn  không dễ dàng bởi mỗi một loại chip đòi hỏi những loại thiết bị khác nhau để sản xuất, dù cũng có một số bước trùng lắp.

Sự thiếu hụt chip còn được khuếch đại bởi căng thẳng Mỹ-Trung, nhất là trong năm 2020 khi Mỹ hạn chế xuất khẩu chip do Mỹ thiết kế hoặc chế tạo sang Trung Quốc. Việc này gây ra nạn mua tích trữ số lượng lớn chip bởi các công ty Trung Quốc, làm sụp đổ chuỗi cung ứng chip toàn cầu.

Ngoài ra, các biến cố khác cũng tác động mạnh đến nguồn cung chip như cháy nhà máy sản xuất chip ở Nhật, lạnh giá kỷ lục ở miền nam nước Mỹ, hạn hán ở Đài Loan (gây thiếu nước dùng sản xuất chip).

Tương lai bất định

Trong bối cảnh thiếu hụt hiện nay, trước khi bỏ ra hàng tỷ USD đầu tư tăng năng lực sản xuất thì các hãng sản xuất lớn phải trả lời được câu hỏi cơ bản, liệu sự tăng vọt về nhu cầu này còn kéo dài trong tương lai hay sẽ giảm nhiệt vào thời điểm các nhà máy mới hoàn thành và đi vào sản xuất?

Nếu sự tăng vọt đến mức khủng hoảng này chỉ là ngắn hạn thì nhiều nhà sản xuất sẽ không muốn bỏ vốn đầu tư mạo hiểm. Hơn nữa, các nhà máy mới xây sẽ trở thành lạc hậu sau 5 năm hoạt động hoặc sớm hơn. Với mỗi nhà máy trị giá đến trên 20 tỷ USD thì mỗi nhà máy này phải tạo ra lợi nhuận tối thiểu là 3 tỷ USD mới làm bài toán đầu tư trở nên khả thi. Do vậy, hiện nay chỉ có Intel, Samsung, và TSMC, với doanh thu gộp 180 tỷ USD năm 2020 (bằng toàn bộ 12 hãng sản xuất chip lớn khác cộng lại) mới đủ sức để đầu tư xây dựng vài nhà máy như vậy.  

Mặt khác, dù vẫn có kế hoạch đầu tư lớn để tăng năng lực sản xuất tổng thể, như TSMC hồi tháng 4 công bố kế hoạch đầu tư 100 tỷ USD trong 3 năm tới (28 tỷ USD năm nay) để tăng công suất và đầu tư thiết bị, nhưng với 2 nhà sản xuất lớn khác thì kế hoạch trung hạn chủ yếu của họ vẫn là phát triển năng lực sản xuất chip tiên tiến (như dự án 20 tỷ USD của Intel Arizona và một số dự án khác trong năm nay, 116 tỷ USD của Samsung đến 2030 để đa dạng hóa sản xuất chip). 

Các nhà sản xuất khác ở Trung Quốc như SMI cũng tham vọng đẩy mạnh sản xuất chip trong các nhà máy mới dưới sự thúc giục của Tập Cận Bình nhằm đạt được độc lập về công nghệ cao như sản xuất chip. Nhưng những nỗ lực này bị cản trở phần vì vấn đề vay nợ, phần vì không tiếp cận được các công nghệ sản xuất chip tiên tiến bị Mỹ cấm vận. Cũng có báo cáo cho thấy thiết bị sản xuất chip hiện cũng tốn nhiều thời gian hơn, thậm chí đến gấp 4 lần so với thông thường để được giao đến tay nhà sản xuất chip.  

Trong khi đó, về phía cầu, nhiều người nghi ngờ cầu tăng vọt hiện nay chỉ là ngắn hạn, gây ra chủ yếu bởi sự hoảng sợ của người mua, khi họ tăng lượng đặt hàng và/hoặc đặt hàng cùng lúc với nhiều nhà cung cấp. Bởi vậy, một số nhà cung cấp chip đã phải áp dụng các biện pháp như không cho phép hủy đơn đặt hàng để ngăn cản một số khách hàng đặt hàng kiểu dự phòng.

Sản xuất chip ở Việt Nam

Ở Việt Nam, hiện đang có những ý tưởng đầu tư để xây dựng công nghiệp chip nội địa, góp phần chủ động nguồn cung cho các doanh nghiệp trong nước.

Cần nói trước hết rằng Việt Nam muốn sản xuất chip nội địa thì hoàn toàn phải phụ thuộc vào ý đồ và kế hoạch của các nhà sản xuất chip thế giới, nhất là 3 “ông lớn”. Các hãng sản xuất khác, dù là nội địa hay nước ngoài, đều khó, không có năng lực/khả năng xây dựng các nhà máy sản xuất chip đúng nghĩa tại Việt Nam (có chăng chỉ là sản phẩm phụ trợ, dịch vụ gia tăng). Ngay như khoản đầu tư bổ sung gần 500 triệu USD công bố hồi tháng 1 của Intel vào dự án 1 tỷ USD của họ Việt Nam cũng chỉ là cho hoạt động lắp ráp chip và thử nghiệm. Và cho dù có một hãng sản xuất có năng lực nào đó có ý định thành lập nhà máy sản xuất chip mới ở Việt Nam thì họ vẫn sẽ vấp phải bài toán về tính khả thi như trên, trong thời gian hậu xây dựng.

Cũng có người nói chúng ta nên đợi khi có thị trường điện thoại thông minh đủ lớn thì hãy đầu tư vào sản xuất chip. Dù vậy thì việc tự chủ chip bằng sản xuất nội địa có lẽ sẽ là quá sức và mang tính phi kinh tế trong vòng nhiều năm nữa. 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).