Monday 24 May 2021

Kinh tế Trung Quốc: Kiểm soát chặt chẽ, tăng trưởng chậm (Bài đăng trên TBKTSG, 23/5/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/316442/kinh-te-trung-quoc-kiem-soat-chat-che-tang-truong-cham.html 

Trung Quốc là một kỳ tích về kinh tế của thế giới. Trong vòng 30 năm, từ 1980 đến 2010, tức chỉ hơn một thế hệ, GDP đầu người của nước này tính theo đô la Mỹ giá cố định đã tăng đến hơn 5 lần. Trên thế giới chưa từng có tiền lệ như vậy, kể cả các con rồng châu Á như Hàn Quốc, Hong Kong, Đài Loan, và Singapore.

Kỳ tích này có tiếp tục tồn tại trong những năm tới? Để trả lời câu hỏi này, trước hết phải xem nguồn gốc của sự thần kỳ này. Tất nhiên, đó là tăng trưởng kinh tế cao độ của Trung Quốc trong những năm qua. Cũng thuộc dạng “vô tiền khoáng hậu”, tăng trưởng GDP của Trung Quốc, như hình dưới đây, đạt trung bình đến gần 10%/năm trong suốt 3 thập kỷ từ 1980 đến 2010.


Nhưng điều gì dẫn đến tăng trưởng cao độ như vậy? Lý do phải kể đến đầu tiên là xuất phát điểm thấp kém của Trung Quốc trong những năm 1980. Vào thời điểm năm 1980, GDP/người của Trung Quốc theo giá cố định mới chỉ là 347 đô la (năm 2000 là 1.768 đô la). Quy luật là nước càng nghèo thì có tiềm năng tăng trưởng càng nhanh, và ngược lại.

Lý do thứ hai là sự cởi trói về chính sách kinh tế của nhà nước, chuyển từ một nền kinh tế theo mô hình cộng sản sang kinh tế thị trường, khởi xướng bởi lãnh tụ Trung Quốc lúc đó, Đặng Tiểu Bình. Nhờ ông ta, các nhà máy mọc lên như nấm ở các thành phố, nông dân nghèo ào ào di cư ra phố thị để làm việc trong các nhà máy. Thu nhập nhờ thế tăng nhanh chóng. Những thành công ban đầu này dẫn đến những cải cách sâu rộng trên cả nước, đẩy mạnh hơn nữa tăng trưởng kinh tế.

Về mặt kinh tế học thì sự tăng trưởng thần kỳ này không có gì khó hiểu, bởi chính sách cải cách, mở cửa của Đặng đã khuyến khích việc liên tục đầu tư và sử dụng có hiệu quả vốn và lao động với các công nghệ ngày càng hiện đại hơn theo tín hiệu của thị trường.   

Bước sang đầu thập kỷ 2010, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc tuy có chững lại, một phần bị tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính thế giới trước đó, nhưng vẫn ở mức đáng mơ ước, trên 9% cho đến trước năm 2013. Kể từ năm này, tăng trưởng đã giảm tốc đáng kể và theo chiều hướng đi xuống rõ nét.

Năm 2013 cũng là năm Tập Cận Bình lên nắm quyền lực tối cao ở Trung Quốc. Cùng với đó là sự chuyển hướng trong chính sách của nước này, mà theo giới kinh tế học thế giới thì đó là một chính sách không thân thiện với tăng trưởng.

Thực tế thì Tập không có ý định bóp nghẹt tăng trưởng, nên có thể nói một cách khác là sự giảm tốc tăng trưởng liên tục của Trung Quốc trong thời đại của ông ta là một hậu quả không mong muốn, chứ không phải là chủ ý. Bởi ít nhất thì ông ta vẫn tham vọng biến Trung Quốc thành một siêu cường cả về kinh tế và quân sự, vượt cả nước Mỹ số 1, mà để làm được điều này thì buộc vẫn phải có tăng trưởng kinh tế mạnh.

Vậy thực chất chính sách của Tập là gì? Nói gọn trong mấy chữ thì ông ta muốn tăng cường sự kiểm soát chặt chẽ mọi mặt đời sống của Trung Quốc. Chẳng hạn, đảng Cộng sản Trung Quốc tuyên bố muốn có sự kiểm soát cao hơn đối với các quyết định quản lý của các công ty Trung Quốc, mà chuyện “dẹp” vụ IPO của mảng tài chính Ant của tỉ phú Jack Ma là một trong những ví dụ điển hình.

Chính sách kinh tế thời của Tập cũng ưu ái gần như tuyệt đối các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), và, do đó, nạn nhân là doanh nghiệp tư nhân, như được thể hiện qua tỷ lệ tín dụng ngân hàng đổ vào hai khu vực này. Nếu như vào năm 2013, tỷ lệ tín dụng đổ vào doanh nghiệp, tư nhân trên tổng tín dụng của hai khu vực vẫn là 57% (tăng lên từ mức 48% năm 2010), thì từ sau năm đó tỷ lệ này tụt giảm thê thảm nhanh chóng, chỉ còn 34% năm 2014, 19% năm 2015 và 11% năm 2016. (1)

Trong một nền kinh tế mà các DNNN thường kém hiệu quả nhưng lại được ưu ái một cách bất bình đẳng lớn như vậy nhằm nhanh chóng đạt được các mục tiêu ưu tiên về chính trị thì đương nhiên nó sẽ kéo tụt hiệu quả chung của cả nền kinh tế. Hiệu quả thấp của DNNN của Trung Quốc có thể thấy rõ qua một số tỷ lệ như lợi nhuận trên tài sản (ROA) bình quân là 3,9%, so với của doanh nghiệp tư nhân là 9,9% vào năm 2018. DNNN chiếm 28% tổng tài sản công nghiệp của Trung Quốc cùng năm nhưng chỉ chiếm 18% tổng lợi nhuận của ngành. (2)                                             

Do đó, bên cạnh yếu tố chín muồi của nền kinh tế Trung Quốc (kinh tế Trung Quốc đã ở giai đoạn phát triển cao hơn nhiều so với mấy thập kỷ trước đây nên sẽ phải tăng trưởng chậm lại, như nói ở trên), sự ưu ái quá mức trong phát triển khu vực DNNN chính là một nguyên nhân chính giải thích cho sự đi xuống của tăng trưởng kinh tế thời Tập Cận Bình, tương phản với thời tăng trưởng nhanh trên nền tảng cải cách, mở cửa, khuyến khích đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài của Đặng Tiểu Bình.

Đến đây, có thể nói rằng sự thần kỳ về kinh tế của Trung Quốc, xét về tốc độ tăng trưởng thu nhập đầu người, sẽ khó có thể tồn tại trong những năm tới (trên cái nghĩa là sẽ không bị một nước nào khác vượt mặt) chừng nào mà Tập Cận Bình vẫn nắm quyền tối cao hoặc, ít nhất là, chính sách kiểm soát chặt chẽ và ưu ái quá mức DNNN của ông ta vẫn tiếp tục được duy trì.

(1) https://www.piie.com/blogs/china-economic-watch/chinas-private-firms-continue-struggle    

(2) https://www.china-briefing.com/news/chinas-soe-reform-process/

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).