Sunday 23 May 2021

Động thái từ thị trường thép Trung Quốc và chính sách của Việt Nam (Bài đăng trên Đầu tư, 23/5/2021)

https://baodautu.vn/dong-thai-tu-thi-truong-thep-trung-quoc-va-chinh-sach-cua-viet-nam-d143289.html

Giá thép và nguyên liệu sản xuất thép như quặng sắt và than mỡ luyện cốc gần đây đã tăng mạnh, liên tục xô đổ các kỷ lục về giá trên các thị trường hàng hóa thế giới. Điều này xảy ra trong bối cảnh Trung Quốc, nhà sản xuất thép và đồng thời cũng là nhà tiêu thụ thép và nhập khẩu các nguyên liệu sản xuất thép lớn nhất thế giới, đang tìm cách cắt giảm lượng thép thô để đáp ứng mục tiêu cắt giảm phát carbon như cam kết của Chủ tịch Tập Cận Bình vào năm 2035.

Trung Quốc muốn giảm sản xuất và xuất khẩu thép

Ngày 28/4, Trung Quốc tuyên bố xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với một số nguyên liệu dùng trong sản xuất thép. Theo đó, có hiệu lực từ ngày 1/5, phí nhập khẩu gang thỏi, phôi thép và thép phế liệu sẽ là 0. Đây là những nguyên liệu đầu vào để sản xuất thép thay cho việc dùng quặng sắt để luyện thép trong lò cao. Đồng thời, việc hoàn thuế xuất khẩu thép cũng bị xóa bỏ. Mục đích của các động thái này được giải thích là để giảm chi phí nhập khẩu, tăng cường nhập khẩu các nguồn lực thép và hỗ trợ việc giảm sản lượng thép thô trong nước.

Trước đó, Trung Quốc, nước sản xuất quá nửa sản lượng thép toàn cầu, đã cam kết giảm sản lượng thép năm nay như là một phần trong kế hoạch giảm phát thải carbon từ một trong những ngành công nghiệp ô nhiễm nhất.

Ngoài biện pháp thuế phí, các biện pháp hành chính cũng được áp dụng, như việc chính quyền tỉnh Đường Sơn yêu cầu 23 nhà sản xuất trong tỉnh phải cắt giảm sản lượng thép trong năm 2021 để giảm phát thải carbon 30-50%. Việc cắt giảm này dẫn đến công suất sản xuất thép thô sẽ sụt giảm khoảng 34 triệu tấn/năm.

Ngoài Đường Sơn, Hiệp hội Gang thép của tỉnh Giang Tô, nơi sản xuất 121 triệu tấn thép thô năm 2020 (11% tổng sản lượng thép thô của Trung Quốc), trước đó cũng đã kiến nghị kiểm soát sản lượng thép. Thành phố Tần Hoàng Đảo của tỉnh Hà Bắc thì được báo cáo là có kế hoạch cắt giảm 30% trong tổng sản lượng 12 triệu tấn thép thô/năm.

Sẽ chỉ giảm được năng lực dư thừa với công nghệ ô nhiễm  

Các nỗ lực cắt giảm sản xuất thép của Trung Quốc như ở Đường Sơn cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến giá thép tăng mạnh ở Trung Quốc từ tháng 4, theo nhận định của Fitch. Do vậy, một số nhà phân tích nghi ngờ Trung Quốc sẽ quyết tâm thực hiện mục tiêu cắt giảm thép của mình nếu xét đến nỗ lực của nước này muốn kiềm chế giá thép tăng quá mạnh.

Ngoài ra, Trung Quốc chỉ tìm cách cắt giảm sản lượng thép tại các nhà máy sử dụng lò cao công nghệ cũ hơn gây ô nhiễm hơn. Do đó, việc cắt giảm sản lượng thép tại những nhà máy này sẽ được bù đắp bởi những nhà máy có công nghệ hiện đại, tuân thủ quy định về môi trường, bên cạnh những nhà máy luyện thép bằng lò hồ quang điện, nếu giá thép vẫn đứng ở mức cao như những tuần vừa rồi, kích thích các nhà sản xuất tiếp tục tăng sản lượng.

Đó là chưa kể kế hoạch tăng công suất thêm 30 triệu tấn năm nay từ các nhà máy mới được xây dựng, theo số liệu của S&P Global Platts. Đây là năng lực sản xuất mới nên chắc chắn sẽ phải đáp ứng được tiêu chuẩn về môi trường khắt khe hơn của Trung Quốc, và như vậy cũng có nghĩa là sản lượng thép của Trung Quốc khó mà giảm đi như ý định của Chính phủ.

Và thực tế là bất chấp chuyện cắt giảm sản xuất ở Đường Sơn, sản lượng thép thô của Trung Quốc trong 4 tháng đầu năm nay vẫn tăng đến 16% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 375 triệu tấn, theo số liệu mới nhất của Hiệp hội Gang và Thép Trung Quốc.

Việc xóa hoàn thuế xuất khẩu thép cũng sẽ giúp tăng nguồn cung cho thị trường thép nội địa. Ngoài ra, nhu cầu tiêu thụ thép ở Trung Quốc sẽ giảm nhiệt thêm trong những tuần tới khi mùa hè đang đến, là mùa có nhu cầu xây dựng chậm lại.

Do vậy, Fitch dự báo giá thép của Trung Quốc đà tăng giá thép sẽ thép sẽ chậm lại trong những tháng tới, dù vẫn sẽ đứng ở mức cao. Giá thép sẽ được cân bằng bởi một bên là sự tiếp tục gia tăng sản lượng thép bất chấp nỗ lực cắt giảm của Chính phủ và bên kia là giá quặng sắt và các nguyên liệu làm thép (kể cả thép phế) vẫn tiếp tục đứng ở mức cao.

Kiến nghị hạn chế xuất khẩu thép ở Việt Nam

Đối phó với giá thép trong nước tăng cao, Bộ Công thương tính hạn chế xuất khẩu loại thép mà trong nước có nhu cầu, ngoài giải pháp yêu cầu doanh nghiệp tăng sản lượng sản xuất.

Như phân tích ở trên, giá thép ở Trung Quốc – nước chiếm quá nửa sản lượng sản xuất và tiêu thụ thép toàn cầu, và xuất khẩu gần 60 triệu tấn thép/năm – trong những tháng tới sẽ hạ nhiệt. Nên giá thép trong nước cũng không thể neo ở mức cao như hiện nay. Do đó, lý do chính để đề xuất hạn chế xuất khẩu thép của doanh nghiệp Việt Nam sẽ không còn nữa.

Ngược lại, nếu doanh nghiệp thép Việt Nam có khả năng xuất khẩu thép ngay trong vòng một vài tháng tới thì cần tranh thủ, cần được khuyến khích tăng cường xuất khẩu để tận dụng cơ hội giá thép vẫn sẽ còn ở mức hấp dẫn trong mấy tháng tới. Điều này càng có ý nghĩa với những doanh nghiệp thép đã tích lũy đủ/thừa nguyên liệu sản xuất thép (quặng sắt, than mỡ, than cốc) từ những quý trước với giá cao, trước khi giá nguyên liệu trở lại mức dễ chịu hơn trong những tháng tới.

Ngoài ra, việc hạn chế xuất khẩu bằng mệnh lệnh hành chính là điều không nên làm. Trung Quốc cũng muốn hạn chế xuất khẩu thép nhưng họ cũng chỉ dám thực hiện bằng việc xóa bỏ hoàn thuế xuất khẩu mà thôi, chứ không có chuyện cấm đoán bằng mệnh lệnh hành chính (có thể do e ngại vi phạm các quy định về thương mại quốc tế). Giả sử Việt Nam cũng đã áp dụng hoàn thuế xuất khẩu với thép thì nay nếu muốn giữ lại thép cho tiêu dùng nội địa thì cũng chỉ nên dùng biện pháp như vậy là cùng. Quyết định xuất khẩu hay bán trong nước nên là quyết định thuần túy của doanh nghiệp. 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).