Thursday, 13 May 2021

Kiềm chế giá hàng hóa tăng: Cuộc chơi lần này không nằm trong tay Trung Quốc (Bài đăng trên CafeF, 13/5/2021)

https://cafef.vn/kiem-che-gia-hang-hoa-tang-cuoc-choi-lan-nay-khong-nam-trong-tay-trung-quoc-20210513095717716.chn 

Tăng, tăng và tăng, điệp khúc này xảy ra hầu như cho giá cả của mọi hàng hóa, nguyên liệu công nghiệp và ở khắp các thị trường trên thế giới trong thời gian qua. Đối với những quốc gia phụ thuộc vào nguyên liệu công nghiệp nhập khẩu thì sự tăng giá này là điều không mong muốn. Trung Quốc cũng không phải là ngoại lệ, đặc biệt khi nước này là nhà nhập khẩu lớn trên thế giới với nhiều loại hàng hóa và nguyên liệu.

Để đối phó với xu hướng tăng mạnh này, Trung Quốc đã áp dụng một số biện pháp, và cũng còn một số lựa chọn giải pháp khác. Nhưng các giải pháp này nếu có hiệu quả thì thường sẽ chỉ có trong ngắn hạn.

Hạn chế đầu cơ

Giá hàng hóa tăng có phần tất yếu là do đầu cơ nên giải pháp tất yếu cũng là ngăn đầu cơ. Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Đại Liên hôm 10/5 tuyên bố sẽ nâng giới hạn mua bán và margin cho các hợp đồng giao quặng sắt vào tháng 6, 9, 12 năm nay và các tháng đầu năm 2022. Các sàn giao dịch khác gồm sàn tương lai Thượng Hải và Trịnh Châu cũng tăng phí giao dịch cho các loại hàng hóa như thép và than nhiệt.

Vấn đề với giải pháp này là nó không mấy hữu ích trong việc quản lý thị trường hàng hóa hữu hình bị chi phối chủ yếu bởi cung cầu thật. Thị trường này đã chứng kiến sự tăng vọt về nhu cầu trên khắp thế giới, ngoài biên giới và phạm vi can thiệp của Trung Quốc, được thúc đẩy bởi sự phục hồi kinh tế mạnh và các gói kích thích kinh tế khổng lồ trong lịch sử ở nhiều nước.

Thực tế, trong khi dù quặng sắt trên sàn tương lai Đại Liên giảm nhẹ hôm 11/5 sau động thái siết lại trên, thép cuộn cán nóng và thép thanh thì lại tăng vọt lên mức kỷ lục sau khi giải pháp hạ nhiệt được công bố. Than nhiệt cũng tăng lên mức kỷ lục.           

Tăng cường nguồn cung

Trung Quốc có một khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đồ sộ mà chính quyền có thể sai khiến được, dù kết quả thường không được như ý muốn. Tháng trước, chính quyền Trung Quốc yêu cầu các mỏ than thuộc DNNN tăng sản lượng tối đa vốn chỉ dành cho những tháng cao điểm về nhu cầu than nhiệt vào mùa đông. Nhưng điều này đã không chặn được đà tăng của than nhiệt trong tháng này.

Trung Quốc có thể tăng nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu trong nước tăng lên về năng lượng. Nhưng căng thẳng quan hệ Trung-Úc đã cản trở việc này. Trung Quốc đã cấm nhập than, trong số hàng loạt hàng hóa khác, từ Úc. Trung Quốc cũng đã cấm một vài doanh nghiệp nhập khẩu gas nhỏ nhập khẩu thêm gas từ Úc cho các hợp đồng giao năm sau.

Xả kho

Trung Quốc đang xem xét bán khoảng 500.000 tấn nhôm từ kho dự trữ nhà nước. Giá giảm ngay lập tức khi tin này được đưa ra, nhưng sau đó lại tăng vọt trở lại lên mức kỷ lục trong một thập kỷ. Sản lượng nhôm của Trung Quốc là 37 triệu tấn năm 2020, hơn một nửa sản lượng toàn thế giới (nhu cầu tiêu thụ cũng vậy).

Vấn đề với giải pháp này là nhu cầu khổng lồ của Trung Quốc, trong khi việc xả kho chỉ như một ngụm nước giải khát ngắn hạn, và cũng không rõ các kho dự trữ chiến lược có bao nhiêu tấn hàng hóa vì số liệu dự trữ không được công bố. Ngoài ra, sau khi xả kho, Trung Quốc sẽ phải mua vào bổ sung để tăng dự trữ chiến lược trong trung hạn nên việc mua tích trữ này sẽ lại làm tăng mạnh giá hàng hóa.

Thắt chặt chính sách tài khóa và tiền tệ

Để phục hồi từ đại dịch, Trung Quốc áp dụng chính sách thông thường – tăng chi tiêu và cơ sở hạ tầng. Điều này dẫn đến sự tăng vọt về giá của những hàng hóa cho xây dựng như thép, đồng và nhôm. Từ đầu năm nay, Trung Quốc đã hạn chế chính quyền địa phương phát hành trái phiếu để lấy vốn đầu tư và hạ tầng. Như vậy, Trung Quốc đang vướng vào tình trạng nan giải, phải chọn hoặc là tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, hoặc để giá tài sản, hàng hóa không căng lên thành bong bóng.

Chính sách tiền tệ cũng có thể bị thắt chặt để chặn đà tăng vọt của chỉ số giá cả sản xuất (PPI) – giá bán hàng hóa tại cổng nhà máy (tăng 7% hồi tháng 3 so với cùng kỳ năm trước). Tuy nhiên, do chỉ số giá cả tiêu dùng (CPI) mới chỉ tăng nhẹ, ở mức 1% trong cùng kỳ nên nếu thắt chặt chính sách tiền tệ thì Trung Quốc phải đối mặt với rủi ro lớn hơn về tăng trưởng chậm khi nhu cầu tiêu dùng bị siết lại quá sớm.

Tóm lại, điểm khác biệt lớn của Trung Quốc hiện nay với Trung Quốc cách đây vài năm là Trung Quốc không còn là thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn duy nhất, mang tính chi phối thế giới nữa. Nhiều nước, đặc biệt là Mỹ và châu Âu, hiện nay đều có những gói chi tiêu khổng lồ hàng nghìn tỷ đô la để phát triển cơ sở hạ tầng, phục hồi tăng trưởng, biến họ thành những thị trường tiêu thụ hàng hóa cũng rất lớn, làm lu mờ vai trò của Trung Quốc. Trung Quốc cũng đang phải đối mặt nhu cầu duy trì và thúc đẩy tăng trưởng, làm dư địa thắt chặt lại chính sách tài khóa và tiền tệ hạn hẹp hơn. Ngoài ra, quan hệ căng thẳng với Úc cũng làm gián đoạn nguồn cung của nhiều hàng hóa, từ đại mạch, rượu vang, đến quặng sắt, than và gas..., làm triệt tiêu hiệu quả của các giải pháp kiềm chế giá có thể thực thi bởi chính quyền Trung Quốc.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).