Thursday 1 July 2021

Bỏ ngay trần hạn mức tín dụng có được không? (Bài đăng trên KTSG, 2/7/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/td/317874/bo-ngay-tran-han-muc-tin-dung-co-duoc-khong.html

Trước đề xuất của nhiều người về bỏ trần hạn mức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tái khẳng định sẽ không bỏ trần này, bởi việc điều hành tín dụng bằng chỉ tiêu và định hướng là cần thiết (1).

NHNN nêu ra ba lý do để bảo vệ lập trường của mình. Thứ nhất, NHNN đã triển khai việc điều hành tín dụng bằng chỉ tiêu và định hướng trong suốt 10 năm qua và (việc này) đã phát huy tác dụng rất tốt trong việc quản lý chất lượng tín dụng. Thứ hai, NHNN căn cứ vào quy mô, chất lượng tài sản của từng tổ chức tín dụng để giao hạn mức tăng trưởng tín dụng, và hạn mức này có thể được xem xét thay đổi theo tình hình thực tế hoạt động của từng tổ chức tín dụng. Thứ ba, tại Việt Nam, vốn tín dụng ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế là chủ yếu. Nếu như không quản lý tốt, hài hoà, sẽ khiến các ngân hàng tăng trưởng tín dụng ồ ạt, không kiểm soát được thì nợ xấu nguy cơ tăng lên. Vì vậy, theo NHNN, hạn mức tăng trưởng tín dụng vừa đảm bảo tăng trưởng vừa đảm bảo kiểm soát chất lượng, trước mắt là công cụ hiệu quả hữu hiệu. Dẫu vậy, NHNN cho biết, trong tương lai, khi thị trường cung ứng vốn không phụ thuộc nhiều vào tín dụng, NHNN có thể thay đổi phương thức này.

Hãy phân tích từng lý do trên để xem tính hợp lý của chúng.

Chất lượng tín dụng không nhất thiết gắn với hạn mức tín dụng

NHNN nói rằng hạn mức tăng trưởng tín dụng đã phát huy tác dụng rất tốt trong việc quản lý chất lượng tín dụng trong 10 năm qua. Điều này dường như không chính xác, bởi thập kỷ 2000 chính là giai đoạn chao đảo, khủng hoảng của ngành ngân hàng với nợ xấu tăng vọt, để rồi phải cho ra đời những giải pháp, những tổ chức chuyên xử lý nợ xấu, như VAMC. Việc các ngân hàng bị NHNN mua 0 đồng cũng xuất hiện trong giai đoạn này.

Như vậy, nếu không muốn bị nói rằng hạn mức tăng trưởng tín dụng đã không giúp được gì, thậm chí là có hại trong việc quản lý chất lượng tín dụng thì ít nhất cũng nên thừa nhận rằng hạn mức tăng trưởng tín dụng không liên quan gì đến, không nhất thiết sẽ giúp quản lý được chất lượng tín dụng. Nói cách khác, hạn mức tín dụng là... không cần thiết!

Đã căn cứ vào quy mô, chất lượng tài sản thì càng không cần hạn mức tín dụng

Từ lý do thứ hai nêu trên của NHNN có thể thấy, để giao hạn mức tín dụng một cách chính xác và phù hợp thì NHNN đã phải thanh tra, kiểm tra, nắm vững tình hình sức khỏe và khả năng hoạt động của từng ngân hàng.

Tuy nhiên, một khi NHNN đã nắm chắc được sức khỏe và tình hình hoạt động của từng ngân hàng thì, về nguyên tắc, họ sẽ/phải nhanh chóng phát hiện bất thường về tăng trưởng tín dụng của một ngân hàng nào đó và có phương án xử lý ngân hàng đó ngay khi hoạt động của nó, mà cụ thể là cho vay tín dụng, đã vượt qua các ngưỡng an toàn, được thể hiện qua các chỉ tiêu định lượng mà NHNN đã ban hành, ví dụ như  tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trên tổng tài sản có, tỷ lệ nợ xấu, trần sử dụng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn...

Ngoài ra, nếu muốn hạn chế vốn tín dụng vào những lĩnh vực được cho là có rủi ro cao, NHNN có thể xem xét thêm các hạn chế định lượng như giới hạn tỷ trọng tín dụng của (mỗi) ngân hàng cấp cho các lĩnh vực này không quá X% tổng tài sản hoặc tổng dư nợ của họ (và tỷ lệ X này có thể khác nhau với mỗi ngân hàng). Những hạn mức định lượng kiểu này cũng đã được quy định trong Thông tư 22/2019, với cách tính cụ thể dựa trên hệ số rủi ro và những mức trần cụ thể.

Vì vậy, vấn đề không phải là NHNN không có công cụ hiệu quả nào ngoài hạn mức tín dụng để kiểm soát chất lượng tín dụng. Thay vào đó, và như đã nói ở trên về sự không cần thiết của hạn mức tăng trưởng tín dụng, vấn đề là liệu NHNN có kịp thời và nhạy bén phát hiện được các vi phạm về ngưỡng hoạt động an toàn của từng ngân hàng, và có biện pháp xử lý nghiêm minh hay không. Nếu luôn đảm bảo làm được như vậy thì bất cứ khi nào ngân hàng thương mại cho vay vượt quá mức mà nó được phép cho vay thì NHNN sẽ lập tức tuýt còi cảnh báo, ngăn chặn và trừng phạt các vi phạm tương ứng, nhờ đó luôn đảm bảo được chất lượng tín dụng của từng ngân hàng và cả hệ thống.

Cũng có thể có lo ngại rằng nếu không quy định tăng trưởng tín dụng cho từng ngân hàng thì sẽ dẫn đến chạy đua lãi suất, đẩy mặt bằng lãi suất lên cao, gây khó cho nền kinh tế. Tuy nhiên, mặt bằng lãi suất trong cả hệ thống và nền kinh tế có tăng lên hay không lại phụ thuộc cuối cùng vào chính sách tiền tệ của NHNN. Nếu NHNN sẵn sàng đáp ứng thanh khoản của hệ thống và nền kinh tế thì việc một số ngân hàng nào đó tăng lãi suất sẽ không gây ra áp lực đáng kể làm tăng lãi suất cả hệ thống. Cũng cần lưu ý rằng NHNN đã từng áp dụng trần lãi suất. Không cần bàn đến việc công cụ này có lợi hay hại, hiệu quả hay không, sự từng tồn tại của công cụ này càng cho thấy nếu muốn chặn cuộc đua lãi suất thì sẽ có nhiều công cụ khác mà không cần phải áp đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng.

Tăng trưởng tín dụng ồ ạt hay không là do chính sách tiền tệ của NHNN

Về lý do thứ ba nêu trên – ngăn không cho các ngân hàng tăng trưởng tín dụng ồ ạt – trước hết, như đã nói ở trên, các ngân hàng nếu tuân thủ đúng quy định hoạt động an toàn (và nếu NHNN theo dõi, thanh tra, giám sát sát sao, kịp thời việc tuân thủ này) thì các ngân hàng sẽ không thể đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng một cách vô tội vạ. Tín dụng trong cả hệ thống vì thế cũng không thể tăng trưởng một cách vô tội vạ, thoát khỏi vòng kiểm soát của NHNN.

Ngoài ra, cần lưu ý rằng NHNN cũng quy định tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tối đa cho cả hệ thống ngân hàng trong từng thời kỳ. Đây chính là cái “van tổng” để điều tiết tín dụng vào nền kinh tế theo định hướng và chủ đích của NHNN. Nếu NHNN không muốn thấy tình trạng tín dụng tăng trưởng mạnh trong nền kinh tế tại một thời điểm nào đó, vượt quá mức họ mong muốn, thì họ hoàn toàn có thể siết lại cái van tổng này.

Mặt khác, nếu nói như NHNN rằng trong tương lai, có thể bỏ hạn mức khi thị trường vốn cung ứng đủ vốn mà không phụ thuộc nhiều vào tín dụng thì e rằng tương lai này sẽ khó mà xảy ra. Bởi NHNN chưa bao giờ tính toán và cho biết tỷ lệ vốn từ tín dụng phải giảm xuống là bao nhiêu trong tổng vốn đầu tư. Và quan trọng hơn, NHNN chưa bao giờ so sánh Việt Nam với thế giới để cho thấy tại sao có nhiều nước mà thị trường vốn không phát triển, nền kinh tế của họ vẫn phải phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng nhưng họ không áp dụng hạn mức tín dụng như của Việt Nam. 

Tóm lại, nếu NHNN thực hiện tốt chức năng quản lý của mình và qua đó bắt buộc các ngân hàng tuân thủ tốt các quy định hoạt động an toàn, lành mạnh của NHNN thì chất lượng tín dụng sẽ nằm trong phạm vi cho phép mà không cần phải có thêm một chỉ tiêu như hạn mức tăng trưởng tín dụng bấy lâu nay.

(1) https://tapchitaichinh.vn/ngan-hang/vi-sao-khong-bo-tran-han-muc-tin-dung-335297.html

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).