Saturday 31 July 2021

Hầu hết điện than sẽ bị lỗ, sao vẫn cứ phát triển? (Bài đăng trên KTSG, số ra ngày 22/7)

https://www.thesaigontimes.vn/318624/ktsg-so-30-2021-chung-tay-day-lui-covid.html

Ngày 2/6/2020, Cơ quan Năng lượng tái tạo quốc tế (IRENA) cho ra mắt báo cáo “Chi phí phát điện từ năng lượng tái tạo 2019”, cho thấy các dự án phát điện từ năng lượng tái tạo hiện càng ngày càng rẻ hơn các dự án điện than hiện hữu. Có đến hơn một nửa công suất phát điện từ năng lượng tái tạo gia tăng trong năm 2019 đã đạt mức chi phí rẻ hơn kể cả của các nhà máy điện than có chi phí thấp nhất.

Theo đó, việc thay thế 500 GW điện than có chi phí cao nhất bằng pin mặt trời và điện gió vào năm 2021 sẽ tiết kiệm cho hệ thống phát điện thế giới 23 tỷ USD/năm và giảm được phát thải tới 1,8 tỷ tấn CO2, tương đương 5% tổng lượng phát thải thế giới năm 2019(1).  

Tương tự, ngày 1/7/2021, tờ Financial Times có bài viết trích dẫn kết quả nghiên cứu của Carbon Tracker cho thấy phần lớn các dự án điện than mới dự kiến được xây dựng sẽ phải vật lộn để không bị thua lỗ(2). Nghiên cứu này cho thấy khoảng 92% các dự án điện than đang được đề xuất hay đang được triển khai xây dựng sẽ có chi phí xây dựng lớn hơn luồng tiền chúng tạo ra trong tương lai, kể cả trong hoàn cảnh “vẫn kinh doanh như thường”, có nghĩa là kể cả ở những nước hạ thấp tiêu chí chống phát thải và không đạt được mục tiêu giảm phát thải theo thỏa thuận khí hậu Paris.

Carbon Tracker cho biết phần lớn các dự án điện than có thể được thay thế bởi năng lượng tái tạo và sẽ tiết kiệm được ngay chi phí. Vào năm 2026, phần lớn các dự án điện than sẽ có chi phí đắt hơn là xây dựng và vận hành dự án phát điện từ năng lượng  tái tạo có cùng công suất. Tính toán này dựa trên chiều hướng giảm đi về chi phí của năng lượng tái tạo và chiều hướng tăng lên về chi phí vay nợ.

Việt Nam được nêu tên là một trong năm nước châu Á gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam và Nhật Bản chiếm đến 80% trong tổng số dự án điện than mới được lên kế hoạch xây dựng trên toàn thế giới (620 dự án, với tổng công suất 300 GW). Trung Quốc đi đầu trong số này, với 187 GW, theo sau là Ấn Độ với 60 GW.

Mới đây, Việt Nam công bố Quy hoạch Phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn 2045 (Quy hoạch Điện VIII). Đáng chú ý là trong khi công suất phát điện tăng mạnh theo thời gian thì tỷ trọng điện than giảm với tốc độ chậm hơn nhiều, lần lượt là 29% năm 2025 (so với 29% năm 2020), 27% năm 2030, 23% năm 2035...

Lý giải việc vẫn phải phụ thuộc nặng nề vào điện than, Viện Năng lượng Việt Nam, đơn vị xây dựng Quy hoạch Điện VIII, cho biết điện than vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn điện là bởi “các nhà máy nhiệt điện than đưa vào giai đoạn 2021-2035 đều là những dự án chắc chắn xây dựng. Đây là những dự án đã thực hiện, công tác xúc tiến đầu tư tốt, không thể loại bỏ”(3). Đồng thời, viện này cũng viện lý do vẫn cần điện than để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện với chi phí “không quá cao”.

Tuy nhiên, viện này cũng thêm rằng Quy hoạch Điện VIII cũng yêu cầu các nhà máy điện than mới phải áp dụng công nghệ tiên tiến (trên “siêu tới hạn”) như là một cách để làm an lòng dư luận.

Từ những lý do trên có thể thấy chúng chỉ là... lý do (cho có)! Trước hết, không thể vì chuyện các dự án đã thực hiện, xúc tiến đầu tư tốt mà cho rằng các dự án này không thể loại bỏ.

Như trên đã cho thấy, việc mạnh dạn chấm dứt sớm các dự án đang thực hiện, hủy bỏ các dự án được đưa vào quy hoạch (và chưa thực hiện) sẽ tránh cho nhà đầu tư thua lỗ sâu hơn trong tương lai sau khi dự án của họ được xây dựng và hoạt động và chắc chắn sẽ bị cạnh tranh bởi các dự án năng lượng tái tạo có chi phí thấp hơn, được dư luận đón nhận nồng nhiệt hơn. Nhà nước thì tránh được viễn cảnh phải tìm cách bù lỗ cho các dự án này nếu Nhà nước có cam kết đảm bảo lợi nhuận cho nhà đầu tư điện than qua bảo đảm giá mua điện, cũng như các chi phí gián tiếp và trực tiếp khắc phục, bảo vệ môi trường (từ đầu vào đến đầu ra của các dự án này). Quốc gia nói riêng và thế giới nói chung sẽ hưởng lợi hơn nhờ một môi trường trong sạch hơn, ít tro bụi, phát thải hơn.

Hơn nữa, như dư luận đã quan ngại lên tiếng, việc tài trợ cấp vốn cho các dự án này sẽ rất khó khăn bởi các ngân hàng, kể cả trong nước, theo triều hướng chung trên thế giới sẽ hầu như không cấp tín dụng cho chúng nữa. Không rõ lúc các dự án đã và đang được triển khai dở dang và thiếu vốn, Nhà nước có mang ngân sách ra để tài trợ cho chúng hoàn thành không, hoặc để “dọn dẹp” các công trình bỏ dở ngổn ngang không?

Về lý do duy trì điện than để đảm bảo chi phí phụ tải điện “không quá cao” của Viện Năng lượng, cũng có thể thấy nó khá gượng ép. Tuy cần phải duy trì điện than ở một tỷ lệ nhất định để đảm bảo an ninh năng lượng, nhưng tỷ lệ này không thể quá cao (thậm chí là không giảm đi vào năm 2025 so với năm 2020) như trong Quy hoạch Điện VIII, nhất là trong bối cảnh năng lượng tái tạo có chi phí càng ngày càng rẻ, và chính năng lượng tái tạo thực ra mới là yếu tố đảm bảo cho chi phí “không quá cao”. Ngoài ra, nhiều nước hiện cũng đã hoặc có kế hoạch loại bỏ hoàn toàn điện than, nên Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi được từ họ lý do tại sao họ không phải duy trì điện than để đảm bảo an ninh năng lượng.

Việc nói rằng đã yêu cầu các dự án điện than phải có công nghệ tiên tiến thì lại mâu thuẫn với nhu cầu phải đảm bảo chi phí phụ tải “không quá cao”, bởi công nghệ càng tiên tiến thì đương nhiên chi phí càng phải tăng hơn so với những công nghệ lạc hậu, phế thải từ các nước khác.

Tóm lại, xét trên cả phía cung và phía cầu trong thị trường năng lượng, chi phí tài chính và các lợi ích tổng thể của quốc gia, điều đáng tiếc là Quy hoạch Điện VIII đã không theo được các xu thế tất yếu liên quan, trở thành một quy hoạch xơ cứng, lạc hậu và có hại cho sự phát triển của đất nước trong tương lai. 

------

(1) https://www.irena.org/newsroom/pressreleases/2020/Jun/Renewables-Increasingly-Beat-Even-Cheapest-Coal-Competitors-on-Cost

(2) https://www.ft.com/content/cf4399bb-bb6b-4465-95e6-6777bc0ab070

(3) https://vneconomy.vn/chua-the-doan-tuyet-nhiet-dien-than-tham-chi-can-xay-them-de-dam-bao-nang-luong.htm

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).