Monday 5 July 2021

Tác động của giá dầu thô lên kinh tế Việt Nam (Bài đăng trên Đầu tư, 4/7/2021)

https://baodautu.vn/tac-dong-cua-gia-dau-tho-len-kinh-te-viet-nam-d146358.html

Sau khi giảm mạnh, thậm chí lao dốc xuống mức âm lần đầu tiên trong lịch sử vào tháng 4/2020, giá dầu thô WTI kết thúc năm 2020 ở mức trung bình là 41,47 USD/thùng, thấp hơn 35% so với năm 2019. Bắt đầu từ tháng 11/2020, giá dầu thô đã phục hồi và trên đà tăng mạnh, đạt 73,64 USD/thùng vào cuối tháng 6/2021, là mức cao nhất trong vòng gần 3 năm trở lại đây. Dự báo giá dầu năm 2021 sẽ đứng ở mức trung bình gần 70 USD/thùng, theo kết quả khảo sát của Fed chi nhánh Dallas, tức là sẽ tăng tới gần 68% so với năm 2020.

Giá dầu thô WTI giao ngay, USD/thùng

Tình hình xuất, nhập khẩu xăng dầu của Việt Nam

Việt Nam là một nước nhập khẩu ròng dầu thô cũng như các sản phẩm xăng dầu. Theo số liệu thống kê xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải quan, năm 2020, Việt Nam nhập khẩu 11,7 triệu tấn dầu thô, trị giá 3,8 tỷ USD. Cùng năm, Việt Nam xuất khẩu 4,7 triệu tấn dầu thô, thu về 1,6 tỷ USD. Như vậy, Việt Nam nhập siêu 7,1 triệu tấn dầu thô với giá trị 2,2 tỷ USD.

Tương tự, nhập khẩu sản phẩm xăng dầu các loại của Việt Nam năm 2020 là 8,3 triệu tấn (trị giá 3,3 tỷ USD), trong khi xuất khẩu đạt 2,3 triệu tấn (trị giá 0,98 tỷ USD), tạo nên lượng nhập siêu là 6 triệu tấn, trị giá 2,3 tỷ USD.

Tổng cộng nhập siêu dầu thô và xăng dầu các loại của Việt Nam năm 2020 lên đến hơn 13 triệu tấn, có giá trị là 4,5 tỷ USD.

Sáu tháng đầu năm nay (tính đến 15/6), Việt Nam tiếp tục nhập siêu 2,7 triệu tấn dầu thô, 2,7 triệu tấn xăng dầu với giá trị tương ứng là 1,2 tỷ USD và 1,4 tỷ USD, đưa tổng nhập siêu dầu thô và xăng dầu lên 2,6 tỷ USD.

Tuy lượng dầu thô và xăng dầu nhập siêu tính đến 15/6 chỉ lần lượt là 38% và 45% lượng nhập siêu trong cả năm 2020 tính theo tấn, nhưng tính theo USD thì lượng nhập siêu này tương đương 52% và 61% của lượng nhập siêu năm 2020. Sự khác biệt này chính là bởi giá dầu thô và theo đó là giá xăng dầu đã tăng mạnh trong nửa đầu năm nay so với 2020, như hình trên cho thấy.

Tác động tiêu cực

Là một nước nhập khẩu ròng cả dầu thô và xăng dầu thì nền kinh tế Việt Nam đương nhiên, về lý thuyết, sẽ bị thiệt hại khi giá dầu thô tăng lên, bởi dầu thô là một trong những hàng hóa đầu vào cơ bản và quan trọng của nền kinh tế. Giá của một hàng hóa nhập khẩu như dầu thô và xăng dầu gia tăng sẽ làm tăng chi phí đầu vào của nền kinh tế làm gia tăng áp lực lên giá cả. Áp lực giá cả tăng trong khi thu nhập không có triển vọng cải thiện đột ngột và đáng kể trong năm nay do đại dịch đang hoành hành sẽ buộc doanh nghiệp và người dân phải tiết giảm đáng kể chi tiêu và đầu tư, từ đó ảnh hưởng ngược trở lại đà tăng tăng trưởng GDP trong năm nay.

Mặt khác, giá nhập khẩu dầu thô và xăng dầu các loại tăng cũng góp phần làm tăng thâm hụt thương mại, từ đó gây áp lực lên tỷ giá USD/VND.    

Tuy nhiên, công bằng mà nói thì mức độ tác động tiêu cực nêu trên lên nền kinh tế Việt Nam có thể không thực sự lớn, dù tác động này rất khó có thể được lượng hóa cụ thể thành con số. Căn cứ để nói tác động tiêu cực không thực sự lớn là ở mức tăng tuyệt đối của nhập siêu dầu thô và xăng dầu dự báo cho năm nay không quá lớn.

Cụ thể hơn, như trên đã cho thấy, tính đến 15/6 năm nay, tổng nhập siêu dầu thô và xăng dầu là 2,6 tỷ USD. Lưu ý thêm là giá dầu thô trung bình từ đầu năm đến 15/6 đã tăng khoảng gần 51% so với cùng kỳ năm ngoái. Với giá dầu thô trung bình cho cả năm 2021 ước tính cao hơn năm 2020 trong khoảng 50%-60%, và với giả sử lượng dầu thô và xăng dầu nhập siêu trung bình theo tháng/năm không thay đổi đáng kể thì có thể ước tính giá trị dầu thô và xăng dầu nhập siêu năm 2021 vào khoảng 5,7 tỷ USD.

So với con số tổng giá trị nhập siêu dầu thô và xăng dầu năm 2020 là 4,5 tỷ USD thì có thể thấy nếu giá dầu thô trong nửa năm còn lại không tăng quá mạnh so với mức dự báo (73,64 USD/thùng cuối năm 2021) thì mức tăng nhập siêu về dầu thô và xăng dầu năm 2021 cũng chỉ là 5,7-4,5=1,2 tỷ USD so với năm 2020.

Với con số khá khiêm tốn 1,2 tỷ USD so với quy mô GDP khoảng 268 tỷ USD (năm 2020), tức chiếm chưa đến 0,5%, thì dù giá dầu thô có tăng mạnh trong năm nay so với năm 2020, cũng vẫn có thể kết luận rằng tác động tiêu cực của giá dầu tăng lên nền kinh tế Việt Nam là không thực sự đáng kể.

Tác động tích cực

Ở chiều ngược lại, giá dầu thô và xăng dầu tăng lại là một điều tốt cho thu ngân sách. Nhà nước không chỉ thu về ngân sách từ việc khai thác và bán dầu thô mà còn thu gián tiếp qua các loại thuế, phí lên xăng dầu các loại.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng thu ngân sách từ dầu thô tiếp tục suy giảm mạnh trong các năm qua, chỉ đạt 34,5 ngàn tỷ đồng năm 2020, chiếm 2,7% tổng thu ngân sách trong cùng năm. Trong khi đó, thu thuế, phí xăng dầu, có giá trị nhỏ hơn so với thu từ dầu thô, cũng sẽ chỉ tăng lên chừng độ một vài ngàn tỷ đồng nếu giá dầu thô năm nay tăng mạnh lên như dự báo.

Do vậy, nếu giả sử lượng dầu thô xuất khẩu và lượng xăng dầu tiêu thụ trong nước không thay đổi đáng kể thì có thể ước tính rằng tác động của giá dầu thô tăng lên thu ngân sách nhà nước cũng chỉ chừng một hai phần trăm tổng thu ngân sách. Nếu tính cả những tác động tiêu cực của sự tăng giá dầu thô lên mức tiêu thụ xăng dầu trong nước, cũng như xu hướng giảm sản lượng dầu thô khai thác trong nước và xuất khẩu thì tất nhiên là tác động tích cực này sẽ nhỏ hơn.

Kết luận

Giá dầu thô tăng sẽ có tác động tích cực hay tiêu cực lên Việt Nam phụ thuộc vào góc nhìn. Nếu nhìn từ góc độ toàn bộ nền kinh tế thì giá dầu thô tăng sẽ gây ra một số thiệt hại, nhưng ước tính thiệt hại này trong năm 2021 cũng không quá lớn so với GDP.

Ngược lại, nếu nhìn từ góc độ thu ngân sách nhà nước thì giá dầu thô tăng là một điều có lợi. Tuy nhiên, do sản lượng dầu thô khai thác và xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng giảm liên tục bởi trữ lượng khai thác giảm, nên nhiều khả năng giá dầu thô tăng cũng chỉ làm cải thiện nhẹ thu ngân sách nhà nước. Mặt khác, do thu ngân sách còn phụ thuộc vào các hoạt động kinh tế và nguồn thu từ các lĩnh vực khác nên khi nền kinh tế bị ảnh hưởng tiêu cực từ giá dầu thô tăng thì thu ngân sách cũng sẽ chịu ảnh hưởng một phần. Do đó, tác động ròng của giá dầu thô tăng lên thu ngân sách có thể không (thay đổi) đáng kể.

Tóm lại, xét một cách tổng thể, giá dầu thô tăng là điều nhìn chung có hại hơn là có lợi cho cả nền kinh tế Việt Nam, tuy thiệt hại có thể không đáng kể trong năm nay.


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).