https://www.thesaigontimes.vn/317888/giam-phat-thai-cuoc-mac-ca-loi-ich.html/#293067
Bất chấp nhiều nỗ
lực và các cuộc thảo luận quốc tế diễn ra trong nhiều năm cho đến nay, tương
lai của vấn đề giảm phát thải nhà kính vẫn khá mờ mịt. Trong khi đó, khối lượng
phát thải đã không chờ đợi kết quả của các cuộc thương lượng quốc tế mà tiếp tục
gia tăng. Cụ thể, sau khi đi ngang trong giai đoạn 2014-2016 vì tăng trưởng yếu
của kinh tế thế giới, lượng phát thải đã tăng trở lại năm 2018 (tăng 2,7%) và
2019 (0,6%).
May mắn là “nhờ”
đại dịch xảy ra năm 2020 làm giảm nhu cầu tiêu thụ năng lượng nên phát thải thế
giới từ khu vực năng lượng đã giảm tới 5,8%, mức giảm mạnh nhất từ Thế chiến thứ
hai. Mức giảm này tương đương với toàn bộ lượng phát thải của khu vực EU (1).
Nhưng với sự phục hồi được kỳ vọng là mạnh mẽ của kinh tế thế giới kể từ năm
nay, giảm phát thải tiếp tục là một thách thức toàn cầu trong những năm tới.
Sự vị kỷ đằng
sau
Nếu có phải tóm tắt
trong mấy chữ về lý do cho tình trạng trì trệ này thì đó chính là thái độ vị kỷ,
vị lợi. Cho đến nay, vẫn còn không ít cá
nhân và tổ chức hoài nghi vào các dự báo về phát thải của các nhà khoa học.
Trong số này có cả những người như cựu Tổng thống Mỹ Trump và, do đó, cả chính
quyền của ông. Cuộc khảo sát của Đại học Yale năm 2019 cho thấy vẫn có đến 48%
cử tri đăng ký của Mỹ không ủng hộ lời kêu gọi Tổng thống ra tuyên bố sự ấm lên
của thế giới là một vấn đề khẩn cấp quốc gia nếu Quốc hội Mỹ không làm gì.
Bên cạnh đó, phát
thải khí nhà kính và biến đổi khí hậu là không biên giới. Trong bối cảnh này, sẽ
hoàn toàn là một tâm lý tự nhiên khi người ta đợi người khác làm (trước), chứ
không phải là mình.
Sự vị kỷ còn được
thôi thúc bởi những cân nhắc về kinh tế. Các sáng kiến giảm phát thải thế giới
thường bị phản đối bởi các quốc gia đang phát triển và ngay trong nội bộ của cả
quốc gia phát triển, đơn giản bởi một lẽ rằng người nghèo, nước nghèo sẽ bị tác
động mạnh nhất bởi các biện pháp giảm thải toàn cầu.
Nếu thế giới có
thực thi những sáng kiến kiểu như thuế phát thải carbon toàn cầu, giải pháp được
cho là hợp lý nhất, thì, theo một ước tính, giá điện bình quân hộ tiêu dùng phải
trả sẽ tăng lên vài chục phần trăm trong vòng một thập kỷ tới (2). Gần tương tự
như vậy là giá khí đốt. Đây sẽ là một đòn đánh nặng lên ngân sách hộ gia đình
nghèo trong bất cứ nước nào, cũng như tất cả các nước nghèo, đang phát triển và
những nền kinh tế mới nổi. Cần nhớ rằng trên thế giới hiện nay vẫn còn đến hàng
tỷ người chưa được tiếp xúc với điện.
Mặc cả lợi ích
Với những yếu tố
nêu trên, có thể hiểu tại sao những nước như Ấn Độ (nước có lượng phát thải lớn
thứ tư trên thế giới, sau Trung Quốc, Mỹ, và EU) cũng như châu Phi lại sẵn sàng
đứng ngoài các sáng kiến giảm phát khí thải toàn cầu. Một phần, họ không thể đánh
đổi tăng trưởng kinh tế để lấy giảm phát khí thải khi mà nhu cầu tăng trưởng là
cấp thiết để đưa hàng trăm triệu công dân của mình thoát khỏi đói nghèo cùng cực.
Phần khác vì suy nghĩ cho rằng trách nhiệm giảm phát chủ yếu là của các nước
phát triển, đi trước, đã được hưởng nhiều lợi ích từ sự phát triển kinh tế dựa
trên tiêu thụ năng lượng hóa thạch trước đây.
Do đó, cách hữu
hiệu nhất để giảm phát thải phải là tài trợ cho các nước nghèo, đang phát triển
trong quá trình áp dụng thuế phát thải toàn cầu. Tuy nhiên, việc duy trì tài trợ
quốc tế trên quy mô lớn như vậy sẽ là điều phi thực tế. Cộng thêm bối cảnh hiện
nay với các nước đang nỗ lực củng cố ngân sách, giảm thâm hụt, tương lai của việc
cắt giảm phát thải sẽ tiếp tục phụ thuộc vào các cuộc mặc cả lợi ích trên quy
mô toàn cầu, trong đó các nước đang phát triển thì yêu cầu sự tài trợ của các
nước phát triển, còn các nước phát triển thì kêu gọi sự tự nguyện cắt giảm phát
thải của các nước kia.
Việt Nam cũng
đang... mặc cả
Những năm trước
đây, Việt Nam đã “cam kết thực hiện giảm 8% phát thải vào năm 2030 so với kịch
bản phát triển thông thường và nếu có thêm nguồn lực quốc tế thì có thể đạt
25%” trong khuôn khổ Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu (3). Cũng cần biết là
Việt Nam không nằm trong số hơn 100 nước cam kết đạt phát thải ròng bằng 0
trong 10 năm tới.
Con số cắt giảm
8%, nhất là so với “kịch bản phát triển thông thường” rõ ràng là một con số
mang tính minh họa thì đúng hơn, cốt để cho thấy Việt Nam cũng chia sẻ thách thức
chung của thế giới. Điều đáng chú ý là điều kiện “có thêm nguồn lực quốc tế” để
đạt mức cắt giảm 25%. Như vậy, có thể hiểu Việt Nam sẽ chỉ tự nguyện cắt giảm
đáng kể phát thải với điều kiện nhận được hỗ trợ tài chính của thế giới.
Mới đây, các con
số cam kết trên được Việt Nam “chủ động” nâng lên thêm một mức nhỏ nữa, lần lượt
thành 9% và 27% (4). Bối cảnh của sự tăng lên này dường như từ tốc độ phát triển
nhanh của năng lượng tái tạo tại Việt Nam trong thời gian qua, trở thành nước
được cho là có công suất lắp đặt điện mặt trời lớn thứ ba trên thế giới sau Mỹ
và Trung Quốc năm 2020.
Tuy nhiên, vẫn có
thể nói rằng con số 9% vẫn là mang tính hình thức, nếu xét đến nhu cầu tự thân
phải thay đổi của Việt Nam khi mà các dự án nhiệt điện chạy bằng năng lượng hóa
thạch trong những năm tới sẽ khó còn được tài trợ bởi các nguồn vốn quốc tế nữa.
Mặt khác, nỗ lực
phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam lại gặp trở ngại lớn từ mạng lưới
truyền tải và dự trữ điện chưa phát triển, dẫn đến dư thừa lớn công suất điện từ
pin mặt trời. Như vậy, Việt Nam có cắt giảm được 27% phát thải hay không phụ
thuộc đáng kể vào nguồn tài chính (cho không) từ bên ngoài để gia tăng năng lực
truyền tải và dự trữ điện (chỉ riêng mở rộng mạng lưới điện quốc gia đến năm
2030 đã cần đến gần 33 tỷ đô la Mỹ, theo Quy hoạch điện VIII).
Trong lúc đợi các
đối tác nước ngoài nào đó chưa rõ bỏ vốn tài trợ, mua lại 18% (27%-9%) phát thải
tự cam kết của mình, Việt Nam có lẽ vẫn phải tiếp tục phụ thuộc vào các dự án
nhiệt điện để đảm bảo khả năng tiếp cận điện với giá hợp lý của người dân và
doanh nghiệp. Và nguồn tài trợ cho các dự án này sẽ chủ yếu đến từ trong nước,
vốn sẽ ngày càng eo hẹp khi các ngân hàng thương mại cũng theo xu hướng chung của
thế giới “nói không” với tài trợ năng lượng hóa thạch.
Trong kịch bản xấu
nhất – không mặc cả bán được 18% phát thải, mà cũng không huy động đủ vốn phát
triển nhiệt điện – thì cả công suất phát điện và lượng phát thải theo Quy hoạch
điện VIII đều là không tưởng.
------
(1) https://www.iea.org/articles/global-energy-review-co2-emissions-in-2020
(2) https://www.marketwatch.com/story/why-is-humanity-so-reluctant-to-save-itself-from-climate-change-2020-02-21
(3) https://www.moit.gov.vn/CmsView-EcoIT-portlet/html/print_cms.jsp?articleId=17504
(4) https://dangcongsan.vn/thoi-su/viet-nam-cam-ket-hanh-dong-quyet-liet-de-ung-pho-toan-dien-voi-bien-doi-khi-hau-579100.html
No comments:
Post a Comment