Friday 23 July 2021

Cách nào giảm thiểu đứt gãy chuỗi cung ứng? (Bài đăng trên KTSG, 23/7/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/td/318574/cach-nao-giam-thieu-dut-gay-chuoi-cung-ung.html

Diễn biến tiêu cực của dịch Covid-19 đã làm khó cho việc thực hiện “mục tiêu kép” – vừa chống dịch, vừa tiếp tục sản xuất ở một số địa phương áp dụng phong tỏa, giãn cách xã hội. Sự dùng dằng giữa một bên là rủi ro sức khỏe và nhân mạng của cả cộng đồng và một bên là hậu quả nhãn tiền của việc đình trệ sản xuất, đứt gãy chuỗi cung ứng cũng như sự quyết tâm với “mục tiêu kép” đã làm nảy sinh ra một giải pháp thỏa hiệp mang tính khả thi nhất là cho phép doanh nghiệp tiếp tục sản xuất nếu thỏa mãn “ba tại chỗ” và “một cung đường hai địa điểm”.

Liệu đây có phải là một giải pháp hữu ích, có thể duy trì lâu dài (đến hàng tháng) không? Và nếu muốn thành công, nhân rộng thì các bên liên đới cần làm gì?

Để trả lời câu hỏi trên, trước hết hãy xem kinh nghiệm và cách làm gần đây nhất ở một số nước trong khu vực như Malaysia và Singapore.

Sản xuất trong phong tỏa ở Malaysia và Singapore

Tối hôm 28/5, Malaysia ra tuyên bố sẽ bắt đầu phong tỏa toàn quốc từ 1/6. Giai đoạn thứ nhất từ 1/6 đến 14/6. Trong giai đoạn này, chỉ có 5 dịch vụ thiết yếu và 12 ngành sản xuất mới được hoạt động. 5 ngành dịch vụ thiết yếu này là y tế, viễn thông và truyền thông, ngân hàng và tiện ích công cộng (điện, nước...). Đối với 12 ngành sản xuất như thực phẩm và đồ uống, thiết bị y tế, dệt để sản xuất trang thiết bị bảo vệ cá nhân và dầu khí..., doanh nghiệp trong các ngành này phải hoạt động với 60% công suất. 

Nếu giai đoạn 1 thành công thì Chính phủ sẽ thực thi giai đoạn 2 kéo dài bốn tuần, cho phép tái mở cửa các ngành kinh tế không có sự tụ tập đám đông. Ở giai đoạn 3, Chính phủ thực thi lệnh hạn chế đi lại (giống như trước phong tỏa toàn quốc đã thực hiện), theo đó các hoạt động xã hội không được phép, và gần như mọi ngành kinh tế đều được phép hoạt động nhưng phải hạn chế số người có mặt ở nơi làm việc.

Theo tuyên bố, việc chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác sẽ được dựa vào số ca nhiễm, năng lực điều trị bệnh nhân Covid-19 của các bệnh viện, cũng như đánh giá rủi ro của Bộ Y tế. Chính phủ cũng tăng cường việc tiêm chủng trong vài tuần để đảm bảo miễn dịch cộng đồng.

Chuyển sang trường hợp Singapore. Ngày 14/5, nước này tuyên bố từ 16/5 sẽ áp dụng các biện pháp hạn chế tụ tập đám đông nghiêm ngặt nhất kể từ đợt phong tỏa toàn quốc năm trước. Sự tụ tập nơi công cộng chỉ được phép đúng 2 người, kể cả là từ cùng một gia đình. Ăn ở nhà hàng bị cấm, chỉ được mang về. Các công ty phải bảo đảm làm việc từ ở nhà của nhân viên là hình thức mặc nhiên; nhân viên ai làm việc được từ ở nhà thì được làm ở nhà. Các công ty phải đảm bảo giờ vào làm việc khác nhau cho những nhân viên nào cần phải đến nơi làm việc (ít nhất một nửa nhân viên phải đến nơi làm việc sau 10h sáng), đồng thời thực hiện giờ làm việc và giờ nghỉ linh hoạt cũng như thu xếp mang tính hệ thống để giảm thiểu sự tụ tập, dồn đọng nhân viên tại bất cứ thời điểm nào. Tụ tập xã hội tại nơi làm việc bị cấm. Công ty phải tránh các sự kiện liên quan đến công việc. Mỗi nhân viên cần nghỉ để ăn riêng biệt tại nơi làm việc. Công ty không được chuyển nhân viên đến các địa điểm làm việc khác nhau. Mọi người luôn phải đeo khẩu trang và thực hành các biện pháp vệ sinh cá nhân và giãn cách phòng lây nhiễm tại nơi làm việc, cũng như luôn thực hiện việc khai báo truy dấu vết bằng thiết bị điện tử.

Ngoài ra, mỗi một ngành lại có các yêu cầu riêng cần đáp ứng liên quan đến phòng Covid-19. Ví dụ, trong những ngành sử dụng nhiều công nhân nhập cư như xây dựng và đóng tàu, sống tập trung trong các ký túc xá, có rất nhiều hạn chế, cấm đoán như công nhân không được ngồi ăn ở nhà ăn mà phải mang về phòng mình (chứa đến hơn chục người), không được tụ tập ở hành lang mỗi tầng ký túc xá, mà chỉ được đi ra phòng vệ sinh rồi quay về phòng. Cho nên việc mà công nhân có thể làm ở ký túc xá xoay quanh ăn, xem phim rồi ngủ, đến nỗi có người đã phàn nàn trên báo rằng cuộc sống như ở tù. Tình hình như vậy đã kéo dài mà không có mấy thay đổi suốt từ đợt phong tỏa tháng 4/2020. Cũng cần lưu ý rằng công nhân nhập cư trong các ký túc xá đều được tiêm vaccine đầy đủ, thậm chí trước cả nhiều người dân bản địa.

Tính hữu ích của giải pháp ở Việt Nam

Điểm chung của cách làm của Malaysia và Singapore trong giai đoạn phong tỏa, giãn cách xã hội là giảm thiểu tối đa các hoạt động kinh tế, xã hội, chỉ duy trì các hoạt động thiết yếu. Với những ngành và doanh nghiệp được phép hoạt động thì bắt buộc phải giảm mạnh số lượng nhân viên, giảm công suất. Việc nới lỏng sẽ theo từng giai đoạn, căn cứ vào số bệnh nhân Covid-19 có giảm theo mục tiêu hay không.

So sánh cách làm trên với cách làm “ba tại chỗ” và “một cung đường hai địa điểm” của Việt Nam, dường như Việt Nam để doanh nghiệp tự quyết định có tiếp tục sản xuất hay không nếu thấy đủ/đáp ứng được các điều kiện đặt ra. Nên điều Việt Nam cần làm trước tiên nếu muốn thực hiện các giải pháp này là phải lập danh sách các ngành được phép tiếp tục mở cửa, và ngành nào được phép mở cửa nhưng phải cắt giảm công suất và nhân viên. Nói cách khác, không phải doanh nghiệp nào thích và thuộc loại “nhà có điều kiện” thì cũng được tiếp tục mở cửa.

Đồng thời, trong mỗi doanh nghiệp tiếp tục mở cửa, chính quyền cần phải quy định chặt chẽ, thống nhất các điều kiện để duy trì sản xuất an toàn (như ở Singapore) và có sự kiểm tra chặt chẽ, thanh tra đột xuất của chính quyền như Singapore đã làm để tránh việc các doanh nghiệp tùy nghi muốn làm gì thì làm sau cánh cổng đóng chặt, có nguy cơ biến doanh nghiệp thành các ổ dịch khu trú. Doanh nghiệp cũng cần phải thường xuyên tiến hành xét nghiệm Covid-19 cho công nhân để kịp phát hiện những ổ dịch mới như đã phát hiện ở các ký túc xá của Singapore kể cả sau khi công nhân tại đó đã được tiêm chủng đầy đủ.

Ngoài ra, so với cách làm của Việt Nam, có lẽ chỉ có Singapore là có điểm chung, từ đặc thù của nước này như câu chuyện về công nhân nhập cư trong ký túc xá nói ở trên. Tuy nhiên, cũng từ lời than vãn về cuộc sống như ở tù trong câu chuyện đó ta sẽ thấy ngay một khiếm khuyết của cách làm ở Việt Nam. Cụ thể, công nhân nhập cư ở Singapore đúng là không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải sống trong ký túc xá, với thân phận... lao động nhập cư, nên phải cắn răng chịu đựng. Nhưng công nhân Việt Nam chắc chắn sẽ không chấp nhận/không thể sống trong cùng hoàn cảnh như ở tù đó kéo dài nhiều tuần, nhiều tháng, ít nhất vì họ còn có gia đình và các mối quan hệ xã hội bên ngoài cổng doanh nghiệp. Nhưng muốn giải tỏa một phần tâm lý cho họ thì tối thiểu cũng sẽ phải nới lỏng, bỏ qua các quy định giãn cách nghiêm ngặt tại nơi ở tạm để rồi đối mặt nguy cơ biến thành các ổ dịch.

Tóm lại, dù sẽ có một số doanh nghiệp có được phép, và muốn mở cửa tiếp tục sản xuất (theo kiểu ăn ngủ tại nơi làm việc hoặc nhà trọ tập trung) thì không phải doanh nghiệp nào cũng duy trì được sự mở cửa này nếu sự phong tỏa kéo dài. Như vậy, sẽ phải chấp nhận gián đoạn sản xuất, đứt gãy chuỗi cung ứng ở một mức độ nào đó mà không có giải pháp hữu hiệu nào khác ngoài cấp tập tiêm chủng trong doanh nghiệp và cả cộng đồng bên ngoài để sớm chấm dứt phong tỏa. 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).