Tuesday 7 August 2012

“Suy thoái kép”?

Đọc báo ngày nay ở Việt Nam tớ rất hay gặp nhiều cách dùng từ rất tùy tiện, quái dị, đáng chú ý hơn là được dùng bởi không chỉ dân thường mà ngay cả giới học giả, quan chức các cấp. Nhiều quá đến mức mà tớ đã hầu như không còn dị ứng nữa.

Nhân hôm nay đọc cái tin có tiêu đề: “BTV Lê Bình “quê độ” trước Bộ trưởng Đam” tớ mới thấy cần phải nói cái gì đó về chuyện này. Đầu tiên là không hiểu cụm từ “sang trọng” này là do ai đưa ra đầu tiên. Có lẽ bối cảnh đưa ra là dựa vào việc CPI giảm xuống mức âm liên tục trong 2 tháng còn GDP tăng trưởng chậm lại cũng trong 2 quý. Khỏi nói, việc sử dụng cụm từ này cũng tùy tiện như việc dùng cụm từ “thiểu phát” và “giảm phát” vốn đang cực kỳ phổ biến hiện nay, và chứng tỏ người nói, mặc dù là chuyên gia và quan chức hữu trách, chẳng hiểu một tí gì sất về kinh tế học cả.

Đã thế lại được đồng chí TS giảng viên Lê Thẩm Dương bồi cho thêm một cú cũng ấm ớ chẳng kém rằng: “hiểu tăng trưởng âm hai tháng liền là suy thoái kép là không đúng.... Khi suy thoái, người ta cứu thì lên nhưng sau đó lại xuống, thì gọi là suy thoái kép. Nếu nói một cách hình ảnh thì giống hình chữ W. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện chưa suy thoái kép, một số người chỉ lo ngại với tình hình tăng trưởng kinh tế như hiện nay, năm 2013 có thể xảy ra tình trạng suy thoái kép”. (Lưu ý những chỗ bôi đậm của tớ)

Viết/hiểu như đồng chí Dương cũng không đúng nốt!

Tuy rất lủng củng, khó hiểu nhưng chịu khó động não một chút (xác định chủ ngữ, vị ngữ) thì có thể hiểu đồng chí Dương đề cập đến cả 2 vấn đề, CPI theo tháng âm và tăng trưởng GDP suy giảm, trong lời nhận định của mình. Cái sai của đồng chí Dương là:

  1. Coi suy thoái kép liên quan đến tăng trưởng theo tháng. Ý của đồng chí Dương nói ở đây chỉ có thể là nói đến tăng trưởng GDP chứ không thể là tăng trưởng của CPI hay lạm phát được, vì không ai nói như vậy cả. Do không có cái gọi là tăng trưởng GDP theo tháng (mà chỉ có tăng trưởng theo quý hoặc năm) nên cách đặt vấn đề như thế này của đồng chí Dương cũng là không đúng nốt.
  2. Để thỏa mãn điều kiện được gọi là suy thoái kép thì theo cách hiểu thông thường phải có một giai đoạn suy thoái, kế tiếp là giai đoạn phục hồi ngắn, rồi lại được kế tiếp bằng một giai đoạn suy thoái khác theo hình chữ W như đồng chí Dương vạch ra. Có điều, để một nền kinh tế được gọi là suy thoái trong một giai đoạn nào đó thì, cũng theo cách hiểu thông thường, tăng trưởng GDP phải là âm liên tục ít nhất trong 2 quý liền. Như vậy, ta sẽ phải có tối thiểu là một chu kỳ 5 quý liền để có thể chứng kiến một giai đoạn suy thoái kép hoàn chỉnh, gồm có 2 quý tăng trưởng GDP âm, 1 quý tăng trưởng GDP dương, rồi lại 2 quý tăng trưởng GDP âm. Nhưng vì năm 2013 (hay năm nào cũng vậy) chỉ có 4 quý nên nhận định của đồng chí Dương rằng “…năm 2013 có thể xảy ra tình trạng suy thoái kép” là sai nốt!
  3. Cũng có thể có đồng chí cắc cớ vặn lại rằng biết đâu trong năm nay sẽ có một quý (chẳng hạn là quý 4) sẽ có tăng trưởng GDP âm; sang năm 2013, sẽ xảy ra tiếp 1 quý có tăng trưởng âm (quý 1) theo sau bởi 1 quý tăng trưởng dương (quý 2) rồi lại đến 2 quý tăng trưởng âm liên tục (quý 3 và 4), đủ đáp ứng lo ngại của đồng chí Dương.
Nhưng vì xác suất để xảy ra tình trạng suy thoái kép như thế này là nhỏ hơn xác suất để cho tăng trưởng âm xảy ra trong một quý nào đó ở Việt Nam, vốn hầu như bằng 0, ít nhất trong giai đoạn năm nay và năm sau, nên suy ra là chuyện suy thoái kép ở Việt Nam hầu như chỉ là chuyện vớ vẩn!

6 comments:

  1. Suy thoái hiểu như a Ngọc là rất đúng với lý thuyết và hợp với các nước công nghiệp vì tại đó 1. Dân số hầu như ổn định; 2. Nhu cầu hầu như ổn định, chỉ tăng khi có những hàng hóa mới sang tạo ra, nhưng số này ít...
    Nhưng với ta, hay đa phần các nước đang PY thì tôi thấy không hợp. Nếu chờ khi tăng trưởng GDP âm thì hầu như chẳng khi nào thấy, thường chỉ xảy ra khi khủng hoảng quá lớn hay chiến tranh. Nhưng trong thực tiễn thì thấy khi tốc độ tăng trưởng GDP tụt xuống dưới một ngưỡng nào đó thì đất nước sẽ hỗn loạn. Chúng ta có dân số tăng nhanh, bắt buộc phải tăng trưởng để đảm bảo cuộc sống của đối tượng này. Chúng ta bị hiệu ứng tiêu dùng du nhập từ các nước Phương Tây nên nhu cầu cũng tăng lên rất nhanh, mà không thể không đáp ứng 1 phần...

    Do đó trong những năm 90, khi đề xuất xây dựng một loạt chỉ tiêu cho VN như tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (không phải 5% như ở Mỹ mà chỉ 1%, vì ta hầu như không có hệ thống an sinh xã hội nên ai cũng phải kiếm việc để tồn tại), tỷ lệ lạm phát tự nhiên (không phải 2% mà khoảng 5-8% - vì nhiều lý do như chất lượng hàng hóa tăng lên, ta còn phải điều chỉnh giá bao cấp lên ngang giá thị trường nhiều loại sản phẩm)... tôi có đề cập tới tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên theo đó phải đảm bảo duy trì mức sống ngang bằng với năm trước cho người dân. Nếu tăng trưởng GDP dưới mức này kéo dài quá 2 quý thì bị gọi là suy thoái kinh tế.

    ReplyDelete
  2. Anh Đ. thân mến,

    Tôi thấy ý kiến của anh, ví dụ tỷ lệ tăng trưởng phải lớn hơn tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên, cũng có lý. Nhưng ở đây, các nhân vật mà tôi nêu ra, và cả chúng ta nữa, đang nói đến chuyện khái niệm (đã được chấp nhận chung). Mà đã là khái niệm chung thì không nên dùng tùy tiện như những nhân vật này và nhân vật khác ngoài đời.

    Nếu muốn hiểu và diễn giải theo ý anh thì trước tiên, ít nhất là họ phải nêu ra những ngưỡng tự nhiên này, cơ sở cho việc đó, các so sánh với quốc tế (ví dụ với các nước đang phát triển, có tiền lệ hay không) rồi tiếp theo là nêu ra một khái niệm/chuẩn mực made-in-Vietnam, từ đó mới có thể phán rằng tăng trưởng ở Việt Nam hiện hoặc sẽ có thể/phải gọi là suy thoái (kép) hay không. Mà ngay cả những khái niệm/chuẩn mực made-in-Vietnam này đã có mấy ai đưa ra và được công nhận đâu?

    Nói thêm ngoài lề, thực ra tôi nghĩ xuất phát điểm cho cái việc dùng "suy thoái kép" này là từ một hay một vài ông chuyên ra/chuyên vào nào đấy kêu toáng lên như thế khi thấy cả tăng trưởng GDP lẫn CPI đều (suy) giảm (mạnh) nên nghĩ rằng đấy là suy thoái kép, với sự diễn giải đơn giản rằng suy thoái có nghĩa là suy giảm đi, còn "kép" có nghĩa là 2 thứ (tăng trưởng GDP và CPI).

    Cho đến nay, tôi chỉ thấy mỗi đồng chí Dương là nêu ra thêm chuyện tăng trưởng sau một giai đoạn phục hồi lại rơi vào suy thoái mới gọi là suy thoái kép theo hình chữ W, chứ chưa có ai nêu ra như vậy cả. Điều này càng chứng tỏ suy luận của tôi về nguồn gốc của chữ "kép" nêu trên là có cơ sở.

    ReplyDelete
  3. Việc xây dựng các chuẩn mực mới rất khó vì nếu thành công thì chúng sẽ trở thành một phần trong các sách giáo khoa kinh tế vốn đã quá nhiều... Để làm được điều này, người đề xuất phải làm việc cật lực (xây dựng hệ thống các lý thuyết và phân tích thực nghiệm để thuyết phục) và cần có các nhà kinh tế tên tuổi ủng hộ. Tôi không đủ năng lực và quyết tâm làm điều đó nên đến nay chẳng ai quan tâm đến chuyện này.
    Chuyện dùng thuật ngữ suy thoái tùy tiện như anh nói không chỉ xảy ra ở VN mà còn ở khắp nơi, khi người ta thấy các doanh nghiệp khó khăn quá (sản xuất tăng trưởng chậm lại hẳn chứ chưa phải là giảm sút), sản xuất không đáp ứng nhu cầu vẫn cao (dù cũng tăng trưởng chậm lại song tốc độ nhỏ hơn so với mức chậm lại của sản xuất), xã hội ngày càng hỗn loạn... Đó là do trong đầu họ luôn tồn tại các chuẩn mực tự nhiên nhưng họ không hệ thống lại và viết rõ ràng, tường minh. Vả lại, với nhiều người, nhất là khi trả lời phỏng vấn, thì không có thời gian giải thích những vấn đề lý thuyết.
    Mặc dù là khái niệm chung song mức chuẩn mực mỗi nước lại khác nhau nên khó có thể so sánh quốc tế. Ví dụ các tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng.... của Pháp, Mỹ, Trung Quốc, VN rất khác nhau. Bản thân VN trong mỗi giai đoạn phát triển (thập niên) cũng khác nhau. Do đó mục tiêu đưa ra các chuẩn này là để phân tích thực trạng kinh tế (đang phát triển nóng ? lạnh ? suy thoái ?, bình thường ?) và đề ra các chính sách tháo gỡ đối với những khu vực có vấn đề để đưa hệ thống KT trở lại quỹ đạo phát triển bình thường, đúng với tiềm năng.
    Việc xây dựng các tỷ lệ tự nhiên (cận dưới) và tỷ lệ tiềm năng trung và dài hạn (tỷ lệ tối ưu) có thể thực hiện được thông qua chạy các mô hình kinh tế lượng.
    Chuyện anh phê phán cách sử dụng chữ W là hoàn toàn đúng. Tôi vẫn nói với các nhà lãnh đạo (chính trị và kinh tế), đại khái là: Giờ các anh có còn nghiên cứu kinh tế nữa đâu, chỉ dựa vào 1-2 con số là cứ thế phán bừa; mỗi hôm phán một kiểu; chỉ còn đám nhà báo là "nghiên cứu kinh tế" bằng cách nối các câu phát biểu của các anh theo cách nghĩ của họ để tạo thành một bài phân tích và dự báo kinh tế để đăng, kiếm tiền.
    Anh ở ngoài, thấy bất bình nên kêu, người ở trong thấy bình thường nên cười khi thấy anh kêu. Chỉ thương các cháu bé đang học kinh tế thì thần kinh vì thấy các chú bác tên tuổi lẫy lừng, chuyên gia đầu ngành.... toàn nói ngược với lý thuyết.
    Chúc anh kêu vui vẻ nhưng đừng thần kinh như các cháu, chúng nó còn trẻ nên chữa được (thất vọng thì bỏ học, bệnh tự nhiên khỏi) chứ mình già rồi khó chữa lắm.
    Mong có dịp gặp anh. Tôi đang ở HN, mỗi năm về nước 2 lần: Dịp hè và Noel.

    ReplyDelete
  4. À quên, tôi cũng đang chữa bệnh thần kinh ở nước ngoài sau gần 30 chục năm vừa chơi vừa xem các bác làm "nghiên cứu kinh tế"

    ReplyDelete
    Replies
    1. Tôi thì thường về Việt Nam theo kiểu du kích, năm vài ba lần, chủ yếu là đi công tác, nhưng thế nào cũng về vào dịp Tết. Vừa rồi tôi có về tháng 6, hai lần liền, tiếc là anh không về vào dịp đó nhỉ.
      Dạo này tôi cũng mát tính lắm rồi, bớt thắc mắc, kêu ca, nên anh cứ yên tâm cho tôi.

      Delete
  5. Nhờ anh phân tích bài này vì có nói tới suy thoái kép ở VN:
    http://www.tienphong.vn/Kinh-Te/588375/Noi-han-muc-tin-dung-lo-suy-thoai-kep-tpp.html

    ReplyDelete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).