Friday 28 September 2012

Chương trình nới lỏng định lượng lần thứ 3 của Mỹ và những tác động lên Việt Nam

(Bài này đã được báo Đầu tư đã trả nhuận bút, có nghĩa là đã được đăng, nhưng chẳng biết đã đăng khi nào và ở đâu. Tớ đang “điều tra”, khổ thế đấy)

Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) mới đây đã tiến hành đợt nới lỏng định lượng (tức nới lỏng chính sách tiền tệ) lần thứ 3, được gọi tắt là QE3. Sự khác biệt chủ yếu giữa QE3 với các chương trình nới lỏng trước đó của Fed (QE1 và QE2) nằm ở chỗ QE3 – chương trình mua lại tài sản, với tổng giá trị lên tới 85 tỷ đôla/tháng, gồm 45 tỷ đôla dành để mua các khoản vay có thế chấp – là chương trình không có thời hạn kết thúc. Nói đúng hơn, nó sẽ được kết thúc chỉ khi nào Fed thấy được sự cải thiện mạnh mẽ trên thị trường việc làm của Mỹ. Như thế cũng có nghĩa là Fed đã gắn thời hạn của QE3 với một mục tiêu kinh tế vĩ mô cụ thể. Ngoài ra, Fed cũng nới rộng thời hạn duy trì lãi suất gần bằng 0 cho các khoản vay tái chiết khấu (Fed Funds) của mình ít nhất là đến giữa năm 2015, thay vì năm 2014 như trước đó đã tuyên bố.

Mục tiêu
Trên lý thuyết, việc ngân hàng trung ương mua tài sản là nhằm nới lỏng chính sách tiền tệ và, do đó, hạ lãi suất dài hạn, gồm cả lãi suất cho vay có thế chấp. Việc này được kỳ vọng sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế thông qua tăng đầu tư lợi dụng lãi suất thấp, đồng thời làm phục hồi thị trường bất động sản Mỹ. 

Tuy vậy, 2 chương trình nới lỏng trước đây chỉ cho một kết quả không rõ ràng, không hoàn toàn như kỳ vọng khi các thị trường nhà cửa và việc làm vẫn trì trệ. Có lẽ đây chính là lý do để Fed lần này tung ra QE3 vô thời hạn gắn với một mục tiêu vĩ mô cụ thể và với cam kết mạnh mẽ duy trì lãi suất thấp trong một thời gian dài hơn nhằm khôi phục mạnh mẽ lòng tin và kích thích đầu tư, tiêu dùng.

Tác động có thể lên nền kinh tế Việt Nam
Tuy QE3 chỉ là một hành động nghiệp vụ của Fed, cũng có thể được tiến hành bởi bất cứ ngân hàng trung ương nào trên thế giới khi muốn nới lỏng chính sách tiền tệ của mình, nhưng phạm vi tác động của chính sách này của Mỹ không chỉ dừng lại ở Mỹ mà lan ra toàn cầu vì vị thế cường quốc số 1 của Mỹ trong nền kinh tế toàn cầu.

Tác động đầu tiên của QE lên một nền kinh tế khác, chẳng hạn như Việt Nam, là làm tăng áp lực lạm phát. Với triển vọng lạm phát Mỹ sẽ tăng lên do QE3, giá cả hàng hóa toàn cầu (tính theo USD) sẽ chịu áp lực tăng lên, làm tăng áp lực lạm phát ở những nền kinh tế có mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu lớn như Việt Nam. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng điều này – QE sẽ làm tăng giá cả thế giới – chỉ đúng (ít nhất là trong trung hạn) khi phần còn lại của thế giới không chịu áp lực giảm phát. Các nền kinh tế lớn trên thế giới hiện nay như EU, Trung Quốc và Ấn Độ thì hoặc là đang suy thoái, hoặc là đang phải chứng kiến đà suy giảm tăng trưởng mạnh, từ đó đã và đang tác động tiêu cực đến tăng trưởng tổng cầu thế giới, và tức là hãm đà tăng của giá cả thế giới do QE gây ra, nếu có. Vì thế, có thể nói tác động của QE3 làm tăng lạm phát ở Việt Nam chỉ xảy ra khi tình hình tại các nền kinh tế lớn khác trên thế giới không tiếp tục xấu đi hơn hiện tại.

Với giả thiết trên, ta tiếp tục xem xét tác động của QE3 lên Việt Nam. Phản ứng của ngân hàng trung ương nước sở tại (ví dụ, Ngân hàng Nhà nước, NHNN) trước áp lực lạm phát gia tăng thường là tăng lãi suất bản địa (VND).  Nhưng nếu làm như vậy thì VND lại chịu áp lực lên giá so với USD, từ đó làm giảm sức cạnh tranh của xuất khẩu của Việt Nam, và, tức là, giảm tốc độ tăng trưởng. Đây chính là tác động có thể có thứ 2 của QE3 lên Việt Nam.
Nếu NHNN cân nhắc thấy rằng việc tăng lãi suất hơn nữa trong bối cảnh các doanh nghiệp đang đồng thanh than khó vì lãi suất vẫn còn cao như hiện nay là việc cần tránh (mặc dù lạm phát đã thực sự tăng tốc trở lại gần đây). Như thế, lãi suất rất có thể được duy trì ở mức hiện tại nhằm hỗ trợ tăng trưởng, thông qua việc giữ nguyên hoặc nới lỏng thêm chính sách tiền tệ (ít nhất là không thắt chặt) của NHNN. Lúc đó, áp lực lạm phát thay vì chỉ đến từ áp lực tăng giá hàng hóa quốc tế, còn đến từ chính sách tiền tệ ít-nhất-là-không-thắt-chặt của NHNN. Nói cách khác, lạm phát gia tăng là điều khó tránh khỏi ở Việt Nam, ít nhất trong giai đoạn trước mắt và sang năm tới.

QE3 có thể còn gây ra tác động thứ 3, và trực tiếp, lên nền kinh tế Việt Nam thông qua kênh tỷ giá và xuất khẩu của Việt Nam. Với việc tăng cung USD, lạm phát ở Mỹ có khả năng sẽ tăng lên thêm một vài điểm phần trăm (khoảng 3%, theo kỳ vọng của Fed). Trong bối cảnh NHNN muốn duy trì ổn định tỷ giá danh nghĩa VND đi đôi với kiềm chế lạm phát bằng chính sách tiền tệ “linh hoạt, thận trọng”, tức là nới lỏng ít, nếu có, thì USD sẽ lên giá thực so với VND (vì chênh lệch lạm phát giữa 2 nước thu hẹp lại, trong khi tỷ giá danh nghĩa ít biến động). Điều này có tác dụng tương đương như việc NHNN chủ động phá giá VND một vài điểm phần trăm so với USD, nhờ đó làm tăng tính cạnh tranh của xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên, tác động tích cực này sẽ bớt đi về mức độ nếu lạm phát ở Việt Nam cũng lại chịu áp lực tăng lên từ việc nới lỏng cung USD của Fed và làm tăng áp lực lạm phát đẩy trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam, làm cho chênh lệch lạm phát giữa 2 nước không thay đổi nhiều theo hướng có lợi cho Việt Nam.
Ngược lại, nếu NHNN thi hành chính sách phá giá chủ động bám sát lạm phát của Mỹ thì tính cạnh tranh của xuất khẩu của Việt Nam sẽ không bị ảnh hưởng cho dù lạm phát của Việt Nam cũng sẽ tăng lên ở mức độ nào đó thông qua “nhập khẩu lạm phát” khi giá hàng hóa nhập khẩu bằng USD tăng lên đồng thời tỷ giá VND/USD cũng tăng lên.

Cũng có thể hình dung thêm một tác động nữa của QE3 lên Việt Nam. Với lãi suất USD và lợi tức trái phiếu Chính phủ Mỹ thấp, các ngân hàng và/hoặc cá nhân, tổ chức Việt Nam sẽ bớt đi nhu cầu đầu tư vào các tài sản này. Thay vào đó, nhu cầu về vàng và bất động sản sẽ tăng lên, đặc biệt trong bối cảnh lạm phát toàn cầu có thể sẽ tăng lên. Như thế, thị trường bất động sản có khả năng ấm lại nhanh hơn còn giá vàng trong nước tiếp tục xu hướng tăng trong thời gian tới.
Tóm lại, ảnh hưởng của QE3 của Fed lên Việt Nam trước tiên sẽ phụ thuộc vào diễn biến ở phần còn lại của nền kinh tế thế giới. Với giả thiết rằng các nền kinh tế lớn trên thế giới sẽ thoát ra cuộc khủng hoảng hiện thời trong năm sau và/hoặc phục hồi tốc độ tăng trưởng, QE3 sẽ rất có thể làm lạm phát gia tăng ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung trong năm tới. Vì áp lực duy trì và phục hồi tăng trưởng, NHNN sẽ có thể phải chấp nhận “sống chung” với lạm phát để cố gắng hạ hoặc ít nhất là duy trì lãi suất như hiện tại (không tăng lên để chống lạm phát). VND vì thế cũng có khả năng bị phá giá ở mức độ nhẹ theo sát với mức lạm phát ở Mỹ để đảm bảo tính cạnh tranh của xuất khẩu. Bất động sản và vàng sẽ sôi động hơn và giá cả có xu hướng đi lên.

Friday 21 September 2012

Có chặn được cơn sốt vàng hay không? (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=258708

08:34 | 22/09/2012
Quyết định 1623/QĐ-NHNN và Thông tư 24/TT-NHNN do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành ngày 23.8 được cơ quan này coi là liều thuốc đặc trị sự bất kham của thị trường vàng trong thời gian qua.
Cụ thể, Quyết định 1623 đã chính thức công bố việc tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng SJC thuộc độc quyền NHNN và nó làm nền tảng pháp lý để nhà điều hành bổ sung nguồn cung vàng miếng, can thiệp thị trường khi cần thiết, nhất là những khi xảy ra sốt vàng. Còn Thông tư 24 thì cấm các tổ chức tín dụng vay và cho vay vốn bằng vàng đối với khách hàng và các tổ chức tín dụng khác; họ cũng không được gửi vàng tại tổ chức tín dụng khác; không được thực hiện các nghiệp vụ ủy thác, đầu tư và các hình thức cấp tín dụng khác bằng vàng.
Tuy vẫn còn chút bán tín bán nghi nhưng tại thời điểm ban hành các quyết định trên thì đa phần giới chuyên gia đều có nhận định khá tích cực về tính hiệu quả của các giải pháp quản lý thị trường vàng như thế này của NHNN.
 
Thế nhưng thực tế đã nhanh chóng chứng tỏ các giải pháp trên không có mấy tác dụng như kỳ vọng trong việc bình ổn giá vàng cũng như ngăn chặn sốt vàng. Giá vàng trong nước đã nhanh chóng tăng vọt kể từ thời điểm ban hành những quy định trên và vượt mức 47 triệu đồng/lượng vàng SJC gần đây. Tất nhiên, cũng cần phải nói rằng giá vàng thế giới trong thời gian qua cũng gia tăng nhanh chóng, vượt trên ngưỡng 1.700 USD/oz. Tuy vậy, không thể đổ lỗi gây ra cơn sốt vàng trong nước hoàn toàn là do giá vàng thế giới tăng, đơn giản vì giá vàng quốc tế nếu quy ra USD thì thường thấp hơn giá vàng trong nước đến cả 1 - 2 triệu VND/oz hoặc hơn. Cũng cần nhắc lại lời cam kết của NHNN không xa trước đây trong việc bình ổn giá vàng trong nước bám sát giá vàng thế giới ở khoảng cách 400.000 VND/lượng.
Vậy thì các giải pháp trên không ổn ở chỗ nào? Thực ra, các nguyên nhân đều khá đơn giản nếu suy từ các nguyên tắc kinh tế thị trường. Thứ nhất, các quy định trên đã biến một thị trường từ chỗ “trăm người bán, vạn người mua” thành một thị trường “vạn người mua, một số ít người bán”, cho dù lượng hàng hóa mang ra mua bán có thể là không phải là quá ít ỏi. Một thị trường như vậy thì quyền lực thuộc về kẻ bán và sẽ làm nảy sinh những rào cản để giá hàng hóa tiệm cận được với mức giá thực được xác định bởi cung thật và cầu thật, đặc biệt là khi những kẻ bán trên phối hợp với nhau để trục lợi, lũng đoạn thị trường (là việc trở nên dễ dàng hơn so với trước đây vì nay chỉ còn một số ít kẻ bán, dễ thông đồng và hợp sức với nhau hơn).
Thứ hai, các quy định trên đã biến một thị trường từ chỗ có nhiều hàng hóa cùng chủng loại để lựa chọn thành một thị trường chỉ có duy nhất một chủng loại và từ duy nhất một nhà cung cấp. Việc quy định NHNN độc quyền nhãn hiệu vàng SJC là một trường hợp điển hình như thế này. Vì chỉ còn một loại hàng hóa để giao dịch thay vì nhiều loại khác nhau như trước đây, đương nhiên loại hàng hóa độc quyền này không thể thỏa mãn được nhu cầu hiện tại trên thị trường và sẽ gây ra sốt giá.
Thứ ba, NHNN đã tiến thêm một bước nữa trong việc chất thêm củi vào cơn sốt vàng bằng việc cách ly thị trường vàng trong nước với thị trường vàng thế giới (ví dụ, không cấp hạn ngạch nhập khẩu vàng, không cho lập sàn giao dịch vàng qua thanh khoản). Thông thường, sự ngăn sông cấm chợ như vậy sẽ dẫn đến hậu quả tất yếu là hàng hóa trong khu vực cách ly đó sẽ trở nên khan hiếm hơn và vì thế giá cả sẽ tăng lên. Nếu biết được quy luật cơ bản của thị trường như vậy thì lẽ ra NHNN không nên mạnh bạo tuyên bố/kỳ vọng rằng sẽ ổn định được giá vàng trong nước ở khoảng cách 400.000 VND/lượng so với giá vàng thế giới.
Tất nhiên ta cũng nên hiểu rằng, NHNN có cái khó của mình là vừa muốn neo giá vàng (theo giá quốc tế) lại vừa không muốn để một lượng lớn ngoại tệ bốc hơi khỏi quỹ dự trữ ngoại hối của mình nên mới không cho nhập khẩu hoặc mở thanh khoản giao dịch vàng. Có lẽ họ hy vọng hoặc cho rằng lượng vàng hiện có trong nước đủ lớn để thỏa mãn tất cả nhu cầu trong các cơn sốt vàng, và vấn đề còn lại chỉ là làm thế nào để huy động được số vàng trong nước sẵn sàng cho mục đích can thiệp mỗi khi có biến động đột xuất về cầu.
Thế nhưng quan niệm kiểu này, nếu có, thì vẫn là sai lầm vì, cũng theo nguyên tắc thị trường, trong bối cảnh bình thường thì nhu cầu huy động sẵn vàng (ví dụ, thông qua hệ thống ngân hàng) rồi để đấy đợi sốt mới tung ra bán (gọi chính xác thì đây chính là nhu cầu đầu cơ) sẽ không thể ở mức lớn để có thể thỏa mãn được mọi nhu cầu tăng đột ngột do sốt vàng (nhất là khi nhu cầu đầu cơ này lại cho mục đích nhân đạo là ổn định thị trường theo yêu cầu hành chính của NHNN được). Và như thế thì khi xảy ra sốt vàng, nguồn lực vàng trong nước cho dù có lớn đến đâu cũng không thể dập tắt nhanh chóng được cơn sốt mà phải đợi thị trường tự điều chỉnh, hoặc có sự chủ động can thiệp của NHNN bằng cách tung vàng dự trữ (nếu có nhiều) hoặc cho nhập khẩu vàng. Nếu quỹ dự trữ ngoại hối (cả vàng và ngoại tệ) là không đủ lớn thì NHNN phải chấp nhận để cho cơn sốt vàng xảy ra và kéo dài cho đến khi thị trường tự điều chỉnh. Nói cách khác, tuyên bố về ổn định giá vàng theo giá thế giới của NHNN như vừa qua là hết sức phản thị trường.
Có thể hình dung ra một khả năng là NHNN sẽ phải thay đổi, rút lại các quy định quản lý vàng hiện tại của mình khi nhận thức rõ tính phi thị trường và vô hiệu của chúng. Nếu không, thị trường vàng thậm chí còn tiếp tục bất ổn và ở mức độ lớn hơn trước.

Friday 7 September 2012

Tăng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng và nỗi lo lạm phát quay trở lại (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=256721

08:38 | 30/08/2012
Một số ngân hàng thương mại vừa được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho phép nâng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng quanh mức từ 15 - 17%/năm lên mức trên 25%, thậm chí tới 30%/năm.
Trước thực tế này, một số chuyên gia đã lên tiếng lo lắng về khả năng lạm phát sẽ quay trở lại như là kết quả của việc tăng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Tuy không giải thích rõ ràng mối liên hệ giữa việc nới chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng với khả năng lạm phát quay trở lại, những chuyên gia này có đề cập đến khả năng hấp thụ vốn thấp và lấy đó làm bối cảnh cho mối lo ngại về lạm phát của mình.
 
Theo họ, trong bối cảnh nền kinh tế vẫn đang khó hấp thụ vốn, thể hiện ở chỉ số tồn kho vẫn đứng ở mức cao và sức mua của thị trường sụt giảm làm cho doanh nghiệp không mặn mà với việc tiếp tục vay vốn để tiếp tục kinh doanh và đầu tư mới, nếu các ngân hàng thương mại gượng ép tăng trưởng tín dụng theo hạn mức tăng trưởng mới thì các doanh nghiệp có khả năng sẽ “làm liều”, “nhắm mắt” nhưng không phải cho mục đích kinh doanh, đầu tư mà cho mục đích xử lý rủi ro cho việc đầu tư chứng khoán, bất động sản trong quá khứ.
Đến đây, ta có thể phần nào hình dung cơ sở của mối lo ngại về lạm phát từ hạn mức tăng trưởng tín dụng của các chuyên gia này là nằm ở chuyện nếu vốn sử dụng không “khéo”, không đúng mục đích, không hiệu quả thì sẽ gây ra lạm phát, một vấn đề tương tự mà cả nền kinh tế đã và đang đối mặt nếu nhìn từ hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp của nền kinh tế nói chung trong các năm qua.
 
Có thể thấy nỗi lo ngại nói trên không có cơ sở vững chắc. Trước tiên, cần thấy rằng việc theo đuổi tăng trưởng tín dụng (trong chỉ tiêu) là quyền lợi chứ không phải là nghĩa vụ của các ngân hàng thương mại, ở cái nghĩa là ngân hàng không phải tăng trưởng tín dụng bằng mọi giá. Vì vậy, nếu chỉ dựa trên chuyện tăng chỉ tiêu như thế này mà lo ngại rằng ngân hàng sẽ phải “ép” để đạt được tăng trưởng tín dụng theo hạn mức bằng cách nhắm mắt làm ngơ cho các doanh nghiệp “làm liều” thì mối lo ngại này là không logic, đơn giản vì ngân hàng chẳng cần phải “ép” nếu họ thấy rủi ro, không có lợi khi nhắm mắt theo đuổi tăng trưởng tín dụng.
 
Tiếp theo, điều kiện cần để lạm phát quay trở lại là cung tiền của NHNN tăng lên đáng kể, tạo điều kiện dẫn đến tăng tổng cầu, từ đó tăng (áp lực) lạm phát. Một trong những điều kiện đủ cho lạm phát quay trở lại là cung tiền tăng lên từ NHNN được dẫn dụ thông qua kênh ngân hàng thương mại đi vào nền kinh tế dưới dạng tăng tín dụng (và thường phải tăng hơn mức tăng tổng cung). Nói cách khác, tăng tín dụng từ (một số) ngân hàng thương mại không nhất thiết làm tăng lạm phát.
 
Nhìn lại tình hình Việt Nam hiện tại. Thực tế là cung tiền của NHNN đã tăng mạnh với các mục đích và/hoặc như là kết quả của việc hỗ trợ thanh khoản ngân hàng, kích thích tăng trưởng kinh tế, và mua ngoại tệ. Lạm phát đã thực sự quay trở lại, trước cả khi các ngân hàng được phép tăng hạn mức tăng trưởng tín dụng, biểu hiện bằng chỉ số CPI tháng 8 ở các thành phố lớn đã chuyển sang dương và tăng đáng kể (tại thời điểm viết).
 
Như vậy, có thể khẳng định ngay rằng lạm phát “tái hồi” như hiện tại bắt nguồn một phần từ nới lỏng cung tiền của NHNN trong suốt nửa năm vừa qua hoặc trước đó nữa. Nếu trong thời gian tới, với lo ngại sự tái hồi của lạm phát ở mức độ nghiêm trọng hơn, NHNN có thể thắt chặt lại chính sách tiền tệ, giảm cung tiền. Khi đó, vì lượng tiền cung ra nền kinh tế trở thành hữu hạn nên tăng trưởng tín dụng của (nhóm) ngân hàng A nào đó sẽ được bù trừ bởi suy giảm tăng trưởng tín dụng của (nhóm) ngân hàng B nào đó, và tổng lượng tín dụng cung cấp cho nền kinh tế thông qua kênh ngân hàng thương mại là một con số không đổi, tức là không tạo thêm áp lực tăng lạm phát. Ngược lại, chỉ khi nào NHNN trong thời gian tới tiếp tục tăng cung tiền để tạo điều kiện tăng trưởng tín dụng trong cả hệ thống ngân hàng thì mới có thể có cơ sở để lo ngại lạm phát tăng từ việc tăng hạn mức tăng trưởng tín dụng.
Cần nhấn mạnh rằng, việc NHNN tiếp tục tăng cung tiền trong thời gian tới mới chỉ là cơ sở để lo ngại lạm phát tăng, chứ chưa phải là khả năng chắc chắn lạm phát sẽ tăng, khi xét thêm điều kiện đủ nói trên.
 
Tín dụng cho cả nền kinh tế tuy mới tăng trưởng ở mức thấp (dưới 2% so với cuối năm 2011), nhưng đã là tăng trưởng dương. Điều này chứng tỏ rằng điều kiện đủ nêu trên, tăng cung tiền từ NHNN được dẫn dụ thông qua kênh ngân hàng thương mại làm tổng tín dụng cho nền kinh tế tăng lên (và tăng hơn mức tăng tổng cầu), đã xảy ra (tuy không hoàn hảo vì mức tăng trưởng tín dụng vẫn thấp xa so với mức tăng cung tiền từ NHNN trong nửa đầu năm nay), và góp phần làm lạm phát quay trở lại mức dương trong tháng 8 này. Có điều, vì tổng tín dụng chỉ mới tăng ở mức thấp như vậy nên có thể thấy một điều rằng cầu tín dụng vẫn ở mức thấp, có thể bắt nguồn từ chuyện tồn kho tăng cao v.v… đúng như nhìn nhận của các chuyên gia nói trên.
 
Trong bối cảnh cầu tín dụng tiếp tục ở mức yếu như vậy, việc một số ngân hàng được tăng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng và nếu giả thiết rằng họ có thể hiện thực hóa được chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của mình thì điều này sẽ chỉ dẫn đến một kết cục là tăng trưởng tín dụng ở các ngân hàng khác phải giảm đi tương đối. Nói cách khác, tổng tín dụng từ hệ thống ngân hàng rốt cuộc có thể chỉ tăng ở mức độ khiêm tốn cho dù một số trong các ngân hàng đã được nới rộng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng và hiện thực hóa được chỉ tiêu đó. Nếu kết hợp thêm với khả năng NHNN sẽ siết lại cung tiền trong thời gian tới như phân tích ở trên thì ảnh hưởng của việc nới chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng lên lạm phát càng trở nên mờ nhạt.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).