Monday 27 November 2017

Có nên cho vay đặc biệt với lãi suất 0%? (Bài đăng trên CafeF, 27/11/2017)

http://cafef.vn/co-nen-cho-vay-dac-biet-voi-lai-suat-0-20171125185311369.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang dự thảo thông tư quy định về cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt. Theo đó, NHNN cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng (TCTD) được kiểm soát đặc biệt trong một số trường hợp với các mục đích như: (1) hỗ trợ thanh khoản khi tổ chức tín dụng có nguy cơ, hoặc lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, (2) hỗ trợ phục hồi theo phương án phục hồi đã được phê duyệt; và (3) hỗ trợ phục hồi theo phương án chuyển giao bắt buộc đã được phê duyệt.

Lãi suất ưu đãi hay lãi suất tái cấp vốn?

Một điểm đáng chú ý trong dự thảo này là với các mục đích (2) và (3) nói trên, lãi suất ưu đãi cho khoản vay đặc biệt từ NHNN có thể đến mức 0% thay vì là lãi suất tái cấp vốn do NHNN công bố trong từng thời kỳ như với mục đích (1) nói trên. Lãi suất ưu đãi đến mức 0% này cũng sẽ được áp dụng với các khoản vay đặc biệt từ Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam với một số đối tượng cụ thể theo phương án phục hồi đã được phê duyệt.

Đối chiếu với 5 phương án cơ cấu lại các TCTD được kiểm soát đặc biệt được quy định trong Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua, gồm: (1) phục hồi, (2) sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng cổ phần, (3) giải thể, (4) chuyển giao bắt buộc, và (5) phá sản. Nếu “phương án phục hồi” và “phương án chuyển giao bắt buộc” nêu trong dự thảo thông tư trên cũng chính là những phương án cơ cấu lại tương ứng nêu trong Luật các TCTD sửa đổi thì có thể suy ra rằng lãi suất áp dụng cho khoản vay đặc biệt, nếu có, với 3 phương án cơ cấu lại còn lại, gồm phương án (2), (4), và (5), sẽ là lãi suất tái cấp vốn của NHNN áp dụng cho mục đích hỗ trợ thanh khoản. Trong trường hợp này, dự thảo thông tư cần quy định rõ như vậy để tránh gây hiểu lầm, tùy tiện lý giải và vận dụng trong thực tế.

Nếu lãi suất cho vay đặc biết các TCTD trong 3 phương án cơ cấu còn lại không phải là lãi suất tái cấp vốn, mà cũng không phải là lãi suất ưu đãi (đến mức 0%) thì có nghĩa là NHNN sẽ không cho vay đặc biệt cho mục đích cơ cấu lại theo 3 phương án này. Nhưng như vậy thì lại đồng nghĩa với việc NHNN sẽ không làm gì khi TCTD đang thực hiện 3 phương án cơ cấu lại này có nguy cơ hoặc lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả. Vì khả năng NHNN không làm gì là khả năng khó xảy ra nên NHNN có thể sẽ phải cho vay đặc biệt trong trường hợp này. Như vậy thì lãi suất cho vay đặc biệt sẽ là như thế nào, được quy định ra sao v.v… cần được bổ sung cụ thể trong dự thảo.

Lãi suất tái cấp vốn đã là quá ưu đãi

Chuyển sang vấn đề quan trọng hơn, NHNN có nên cho vay đặc biệt với lãi suất thấp hơn lãi suất tái cấp vốn hoặc thậm chí đến 0% như dự thảo quy định? Câu trả lời là không nên.
Trước hết, NHNN cho vay (tái cấp vốn) các TCTD đã là một hành động mang tính cứu trợ, giúp đỡ. Khi đã phải vay tái cấp vốn từ NHNN có nghĩa là các TCTD hầu như không còn “bấu víu” được vào đâu để có đủ thanh khoản cho hoạt động bình thường của mình.

Bản thân lãi suất tái cấp vốn cũng đã là lãi suất ưu đãi vì thấp hơn nhiều so với lãi suất đi vay, huy động trên thị trường vốn, thị trường liên ngân hàng hay từ dân chúng. Bởi vậy, khi NHNN đồng ý cho vay tái cấp vốn có nghĩa là NHNN tự nguyện gánh lấy (một phần) rủi ro thay cho TCTD và TCTD thì đương nhiên được hưởng thêm lợi ích nữa là được rót vốn với lãi suất ưu đãi thấp hơn thị trường.

Nhưng hậu quả gì sẽ xảy ra nếu, căn cứ theo quy định như trong Luật các TCTD sửa đổi và dự thảo thông tư, NHNN vẫn cứ quyết định cho TCTD có vấn đề vay với lãi suất thấp hơn cả lãi suất tái cấp vốn, thậm chí với lãi suất 0%?

Như trên đã phân tích, 2 phương án cơ cấu lại được hưởng lãi suất ưu đãi có thể đến 0% là phương án phục hồi và phương án chuyển giao bắt buộc. Giả sử sau khi được vay đặc biệt với lãi suất ưu đãi, TCTD thực hiện cơ cấu lại theo 2 phương án này thành công.
Với trường hợp của phương án phục hồi, TCTD quay trở lại hoạt động bình thường, với cơ cấu cổ đông có thể giữ nguyên hoặc không thay đổi đáng kể. Điều này có nghĩa là khoản cho vay đặc biệt với lãi suất ưu đãi của NHNN đã làm lợi cho TCTD này nói chung và cho các cổ đông hiện hữu của nó nói riêng mà nhà nước không thu được lợi ích gì ngoài lợi ích khá mơ hồ, khó định lượng được là “sự ổn định” của hệ thống ngân hàng, tài chính quốc gia.

Tương tự như vậy, với phương án chuyển giao bắt buộc, người hưởng lợi từ “nguồn lực” nhà nước là các chủ đầu tư, sở hữu mới của TCTD mà không phải là nhà nước.
Ngược lại, khi 2 phương án cơ cấu lại trên đây không thành công thì đương nhiên là NHNN sẽ phải đối mặt với rủi ro là không thu hồi được khoản cho vay đặc biệt, dù theo dự thảo thông tư thì khoản cho vay đặc biệt này được ưu tiên giải quyết trước tất cả các khoản nợ khác.

Bởi vậy, để đảm bảo công bằng, theo cơ chế thị trường, NHNN không nên quy định và thực hiện cho vay đặc biệt với lãi suất đến mức 0%, dù có thể Luật các TCTD sửa đổi cho phép lãi suất có thể đến mức 0%. Khi đã cho vay đặc biệt thì tốt nhất là nên thống nhất mức lãi suất trong mọi trường hợp bằng với lãi suất tái cấp vốn.

Thursday 23 November 2017

Nợ xấu giảm chưa thực chất (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 23/11/2017, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/td/265264/No-xau-giam-chua-thuc-chat.html

Trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Lê Minh Hưng cho biết tổng số nợ tiềm ẩn có thể thành nợ xấu, nợ xấu nội bảng và nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý được của toàn hệ thống tính đến cuối tháng 9/2017 là 566 nghìn tỷ đồng, giảm so với mức 600 nghìn tỷ đồng tại thời điểm cuối năm 2016. Tỷ lệ nợ xấu đến cuối tháng 9/2017 là 8,61%, cũng giảm so với mức 10,08% hồi cuối năm 2016.
Phân tích thêm thông tin ngắn gọn trên cho thấy một số điểm đáng chú ý về tình hình nợ xấu và xử lý nợ xấu trong thời gian qua.
Thứ nhất, nếu so tổng số nợ xấu mà Thống đốc Hưng báo cáo ở trên với con số tương tự được nguyên Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình “tiết lộ” vào tháng 9/2014 là khoảng 500.000 tỷ đồng thì sẽ thấy rằng thực tế tổng nợ xấu đã tăng lên mạnh (20%) ít nhất là cho đến thời điểm tháng 12/2016, trước khi giảm đi trong năm 2017.[1]
Ở đây có hai khả năng. Khả năng đầu tiên là ông Bình đã “tiết lộ” nhưng không chính xác, đầy đủ con số nợ xấu thực tế phát sinh và tích tụ trong hệ thống ngân hàng dưới thời của ông. Khả năng này không thể hoàn toàn phủ nhận nếu nhớ lại rằng NHNN lúc đó đã có sự bất nhất về con số nợ xấu, và đã từng phải cải chính bằng những con số nợ xấu cao hơn nhiều cho những thời điểm trước đó (xem, ví dụ, [2] và [3]).
Nếu khả năng trên là không đúng thì chỉ còn lại khả năng là công cuộc xử lý nợ xấu ít nhất là từ các năm 2012 cho đến 2016 đã không thành công, nếu không muốn nói ngược lại, với nợ xấu thực chất đã tăng lên mạnh thay vì giảm đi như kỳ vọng.
Điểm đáng chú ý thứ hai về những con số do Thống đốc Hưng báo cáo là mặc dù tổng nợ xấu đã giảm đi trong năm nay (tính đến tháng 9), nhưng giá trị nợ xấu nội bảng lại tăng lên, như được trình bày trong bảng dưới đây. Cụ thể hơn, nợ xấu nội bảng đã tăng 5% so với thời điểm tháng 12/2016, từ 146.429 tỷ đồng lên 153.826 tỷ đồng.
Có thể sẽ có người giải thích rằng nợ xấu nội bảng tăng lên một phần là do tín dụng (tổng dư nợ) cũng đã tăng trưởng mạnh (10,44%) làm phát sinh nợ xấu nội bảng mới. Nhưng dù vậy, tốc độ tăng nợ xấu nội bảng, bằng phân nửa tốc độ tăng trưởng tín dụng, cũng vẫn cho thấy một sự quá bất thường. Điều này lại cho thấy hai khả năng. Khả năng thứ nhất là tăng trưởng tín dụng đã phải trả bằng cái giá quá đắt là làm tăng mạnh nợ xấu (nội bảng), nên cần phải đặt câu hỏi nghiêm túc là liệu có nên cố gắng thúc đẩy và/hoặc duy trì tăng trưởng tín dụng cao như hiện nay hay không.
Khả năng thứ hai liên quan đến sự tăng lên của nợ xấu nội bảng là, ngoài sự “góp mặt” của khả năng thứ nhất, nợ xấu nội bảng còn tăng bởi thực tế là đã có một phần dư nợ trước đây lẽ ra đã phải bị phân loại là nợ xấu thì lại được che giấu, phân loại thành nợ bình thường, đến nay mới bộc lộ (không thể che giấu được nữa). Và điều rút ra được từ khả năng này đương nhiên sẽ là muốn xử lý nợ xấu thành công thì trước hết phải trung thực, minh bạch, không vì bệnh thành tích hay động cơ chính trị nào đó để cho ra những con số đẹp đẽ không có thực.
Một điểm đáng chú ý nữa trong bảng dưới đây là mức giảm mạnh của nợ xấu tiềm ẩn (chủ yếu là các cam kết bảo lãnh vay vốn, cam kết trong nghiệp vụ L/C và các cam kết bảo lãnh khác), giảm tới 25.397 tỷ đồng so với cuối năm 2016 và chiếm tỷ trọng lớn trong con số 34.000 tỷ đồng là mức cải thiện (giảm đi) của nợ xấu tính đến tháng 9/2017 so với cuối năm 2016 (=600.000 tỷ - 566.000 tỷ). Mức giảm này thậm chí còn lớn hơn nhiều khoản nợ xấu được VAMC xử lý trong năm nay (16.000 tỷ).
Căn cứ vào quá trình chật vật xử lý nợ xấu suốt nhiều năm qua cũng như thực tế là cho đến nay chưa bao giờ NHNN công bố diễn biến của cấu thành này trong bức tranh nợ xấu ở Việt Nam nếu nó thực sự có đóng góp tích cực vào cải thiện nợ xấu như vậy, có thể suy ra một cách không hề thiếu thận trọng rằng mức giảm của nợ xấu tiềm ẩn, nếu có, không thể lớn đến mức độ như vậy. Nói cách khác, vẫn có một sự không rõ ràng, chính xác về con số tổng nợ xấu mới được NHNN báo cáo.
Tóm lại, đằng sau những con số tỷ lệ nợ xấu “đẹp” mà NHNN báo cáo là một thực tế có thể khác nhiều và chứa đựng nhiều điều đáng suy ngẫm và đòi hỏi những hành động cần thiết tương ứng của các bên có liên quan.



[1] http://www.thesaigontimes.vn/120664/Thong-doc-NHNN-thua-nhan-no-xau-len-den-500000-ti-dong.html
[2] http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/tien-te-bao-hiem/2014-02-21/nhnn-phan-hoi-ve-so-lieu-no-xau-cua-moody%E2%80%99s-7875.aspx
[3] http://soha.vn/20-phut-dang-dan-cua-thong-doc-nhieu-so-lieu-ve-no-xau-va-vi-pham-ngan-hang-duoc-cong-bo-20170607142605095.htm

Monday 20 November 2017

Đề xuất xóa nợ thuế còn nhiều bất hợp lý! (Bài đăng trên TBKTSG, 20/11/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/264912/De-xuat-xoa-no-thue-con-nhieu-bat-hop-ly.html

Bộ Tài chính đã đề xuất sửa đổi quy định về xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt trong dự thảo tờ trình Chính phủ về việc xây dựng Luật Quản lý thuế sửa đổi cho một số trường hợp cụ thể.

Điều có thể nói trước tiên về đề xuất này là sự “khác người” của nó. Chuyện xóa nợ thuế, nếu có, không phải là phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Có chăng, và rất phổ biến, là chuyện miễn, giảm các khoản phí phạt và tiền lãi phát sinh do nộp thuế chậm hoặc khai gian thuế, trong một số trường hợp, hoàn cảnh cụ thể (còn khoản thuế gốc thì vẫn cứ phải trả). Bởi vậy, ở Việt Nam, việc xóa nợ thuế (gốc) dường như đang đi ngược xu hướng chung.

Quan trọng hơn, không phải mọi trường hợp và điều kiện nêu ra để xóa nợ thuế đều là hợp lý, chính đáng.

Ngừng kinh doanh, giải thể không phải là lý do để xóa nợ thuế

Theo tờ trình, nhiều người nộp thuế kinh doanh thua lỗ trong giai đoạn kinh tế đi xuống từ năm 2007 -2012, đã ngừng kinh doanh, giải thể, nên không có khả năng thu hồi trong khi cơ quan thuế vẫn phải phân bổ nguồn lực thực hiện. Do đó các đối tượng này cần được xóa nợ.

Chuyện ngừng kinh doanh, giải thể không phải là cái cớ hay điều kiện hợp lý để xóa nợ (hoàn toàn) thuế. Khi đã phát sinh nghĩa vụ thuế có nghĩa là con nợ có thu nhập, có các hoạt động chịu thuế và có nghĩa vụ phải nộp đúng hạn các khoản thuế tương ứng. Đóng cửa, ngừng kinh doanh, giải thể là chuyện xảy ra sau này và, quan trọng hơn, cũng không liên quan gì đến thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Người nộp thuế luôn phải có trách nhiệm chuẩn bị đầy đủ tiền nộp thuế khi đến hạn, chứ không thể nại lý do (hiện tại) không có tiền để trả thuế.

Tương tự, cơ quan thuế cũng không (được quyền) tự động xóa nợ thuế cho những con nợ này sau một thời gian nhất định không đòi được nợ, chẳng hạn là năm năm. Dù có thể không thu được thuế từ những con nợ này, nhưng cơ quan thuế trước hết cần tiến hành tất cả các biện pháp cưỡng chế được pháp luật cho phép, gồm cả việc chuyển cơ quan chức năng truy tố tội trốn, không nộp thuế (nhờ thế có thể buộc con nợ phải “xoay” tiền ở đâu đó để nộp thuế nếu không muốn đi tù). Chừng nào chưa thực hiện tất cả những biện pháp này để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật thì chừng đó cơ quan thuế chưa có cơ sở để kết luận rằng khoản nợ thuế này “không có khả năng thu hồi”, và vì thế chưa thể xóa nợ (gốc) được.

Việc cơ quan thuế phải tiếp tục bố trí nguồn lực thực hiện (việc thu thuế) trong các trường hợp này còn là một biện pháp “nhắc nhở” tinh thần trách nhiệm của cơ quan thuế khi đã để xảy ra nợ đọng thuế quá lâu, tránh tình trạng do thông đồng với con nợ hoặc vô trách nhiệm của cán bộ thuế để nợ đọng thuế kéo dài, cuối cùng được hưởng “ưu đãi” xóa nợ!

Cũng vì khả năng này nên Luật Quản lý thuế sửa đổi cần đưa thêm điều khoản xem xét trách nhiệm của cơ quan thuế khi để xảy ra tình trạng nợ đọng thuế kéo dài với những lý do như ngừng kinh doanh, giải thể.

Chuyển hình thức sở hữu vẫn phải nộp thuế đầy đủ

Cũng theo dự thảo tờ trình, trong số nợ thuế còn có một phần không nhỏ là tiền phạt chậm nộp của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã cổ phần hóa, do khi bàn giao tài chính giữa DNNN cho công ty cổ phần thì chỉ bàn giao tiền thuế nợ mà không bàn giao tiền chậm nộp phát sinh tương ứng. Do vậy, để góp phần giảm nợ cho ngân sách nhà nước, giảm nguồn lực, chi phí theo dõi nợ thuế thì cần bổ sung quy định là không tính (phí) chậm nộp trên số tiền thuế phát sinh của DNNN đã bàn giao cho công ty cổ phần khi thực hiện chuyển đổi cổ phần hóa trước ngày 1-7-2007.

Có thể Bộ Tài chính cho rằng  doanh nghiệp sau cổ phần hóa vẫn có cổ phần của nhà nước nên nếu tính phí chậm nộp thuế thì ngân sách nhà nước sẽ phải bỏ tiền ra trả, hoặc nếu không trả được thì phải nợ treo đó, và trường hợp nào thì cũng làm tăng nợ, tăng gánh nặng ngân sách nhà nước. Nếu đúng vậy thì lập luận này không thuyết phục. Nếu xóa nợ thuế thì tự nhiên nhà nước xóa nợ cho cả các ông chủ tư nhân mới của công ty cổ phần.
Trên hết, ngay bản thân DNNN cũng phải nộp thuế và phí (để rồi có thể được nhà nước điều tiết, phân bổ lại), đảm bảo bình đẳng với mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần khác thì không có lý gì doanh nghiệp cổ phần lại được xóa nợ phí chậm nộp thuế.

Tránh tiền lệ xấu

Dự thảo cũng đề xuất xóa nợ với nhóm các doanh nghiệp như Liên minh hợp tác xã, tỉnh ủy, thành đoàn, tỉnh đoàn... đã được đơn vị chủ quản ra quyết định giải thể nhưng còn nợ thuế mà cơ quan chức năng không còn có thông tin về các doanh nghiệp này.

Tương tự, các doanh nghiệp được sở kế hoạch và đầu tư cho phép giải thể và bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trước khi cơ quan thuế thực hiện các biện pháp cưỡng chế, và tình trạng đã kéo dài nhiều năm... cũng được đề xuất cho xóa nợ thuế.

Đề xuất này thoạt nghe cũng hợp lý vì không còn ai để “nắm tóc”. Tuy nhiên, điều cần tuyệt đối tránh là tạo tiền lệ xấu cho các vụ việc tương tự về sau. Nếu được luật hóa, về sau này, các tổ chức, đoàn thể sẽ lại tiếp tục dựng nên và tùy tiện cho các doanh nghiệp giải thể mà không thực hiện các nghĩa vụ thuế phát sinh. Và cũng như vậy, chính quyền địa phương sẽ tiếp tục tùy tiện cho giải thể và thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh các doanh nghiệp họ quản lý mà không trải qua các bước và thủ tục cần thiết, trong đó có giải quyết các nghĩa vụ thuế với nhà nước trước khi chấm dứt hoạt động.

Tóm lại, trong mấy lý do được đưa ra để giải trình cho việc xóa nợ thuế, có lẽ chỉ có lý do cuối cùng - xóa nợ thuế cho người đã chết hoặc mất tích, dù có tài sản hay không - là có thể chấp nhận được để đưa vào luật sửa đổi.

Friday 10 November 2017

So sức khỏe DNNN qua ba năm (Bài đăng trên TBKTSG, 10/11/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/166394/So-suc-khoe-DNNN-qua-ba-nam.html

Tháng 10-2017, Chính phủ đã trình Quốc hội báo cáo về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2016. Báo cáo này và các báo cáo tương tự trong các năm trước cho thấy một số thực tế đáng chú ý về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong thời gian qua.

Bệnh “nhờn” luật trầm trọng

Một điểm chắc rất ít người để ý nhưng khá quan trọng đó là sự coi thường luật pháp của một số DNNN và các cơ quan chủ quản của các doanh nghiệp này, có thể gọi thẳng là như vậy.

Trong báo cáo năm 2016, số lượng DNNN mà Chính phủ thu thập được số liệu để làm báo cáo là 492. Con số này nhỏ hơn các năm trước. Ngoài lý do là một số DNNN chính thức chuyển thành công ty cổ phần, báo cáo cũng nêu lý do khác là do thiếu số liệu báo cáo của các doanh nghiệp độc lập do Bộ Công Thương, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế làm chủ sở hữu. Trong báo cáo năm 2015, lý do trên - thiếu số liệu do các doanh nghiệp không báo cáo - cũng được nêu ra. Nếu lần ngược trở lại năm 2014, vẫn thấy có lý do này.


Điều này cho thấy sự coi thường những quy định pháp luật về chế độ báo cáo tình hình hoạt động của các DNNN không có dấu hiệu giảm sút, bất chấp mọi nỗ lực khắc phục căn bệnh này trong các năm qua. Đáng chú ý hơn, sự vi phạm này không chỉ diễn ra một lần (một năm) mà còn tái diễn trong các năm sau. Cụ thể, ba cơ quan chủ sở hữu các doanh nghiệp không báo cáo số liệu gồm Bộ Công Thương, NHNN và UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đều được nêu tên trong hai năm liền, 2015 và 2016. Lưu ý thêm là người viết mới chỉ so sánh tình hình này trong ba năm, từ 2014-2016, mà không rõ các năm trước có xảy ra tình trạng này hay không.

Lợi nhuận sụt giảm

Số liệu tài chính từ các báo cáo trong ba năm từ 2014-2016 được tổng hợp vắn tắt ở bảng 1. Dù số lượng DNNN báo cáo sụt giảm mạnh nhưng tổng tài sản thậm chí lại tăng nhẹ trong năm 2016. Vốn chủ sở hữu còn tăng mạnh hơn (theo giải thích là chủ yếu từ nguồn quỹ đầu tư phát triển được trích lập từ lợi nhuận sau thuế và chênh lệch đánh giá lại tài sản và thặng dư vốn thu được trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp thành viên, đơn vị phụ thuộc của DNNN).
Mặt khác, do số lượng DNNN báo cáo đã giảm mạnh qua từng năm nên đương nhiên là tổng doanh thu và lợi nhuận trước thuế của các DNNN có báo cáo cũng đã suy giảm. Nhưng điều đáng lưu ý là tốc độ sụt giảm lợi nhuận trước thuế mạnh hơn tốc độ sụt giảm doanh thu, và hoàn toàn đi ngược với xu hướng tăng lên về tài sản và vốn chủ sở hữu. Điều này cho thấy hiệu quả hoạt động của các DNNN nếu đánh giá trên chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế ngày càng có xu hướng suy giảm trong những năm qua.
Thực tế trên cũng phần nào được minh họa qua tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu cũng có xu hướng đi xuống, dù không thể phủ nhận sự khác biệt về phạm vi/số lượng DNNN báo cáo (tức là khác biệt về mẫu thống kê) cũng có thể góp phần vào sự suy giảm này.
Điều khá ngạc nhiên là tổng số phát sinh phải nộp ngân sách nhà nước (NSNN) lại tăng lên trong năm 2016 bất chấp doanh thu và lợi nhuận trước thuế suy giảm. Không có lý do nào được nêu ra trong báo cáo để giải thích hiện tượng này. Tuy nhiên, đây mới là khoản phải nộp mà không rõ trên thực tế Nhà nước có thu được đầy đủ các khoản phải nộp này không hay đã bị nợ đọng, trì hoãn.

Chỉ số an toàn hoạt động cải thiện nhẹ

Báo cáo không cho biết các chỉ tiêu cụ thể như tồn kho, vay nợ, nguồn vốn của tổng thể các DNNN trong từng năm nên ở đây ta sẽ dùng các con số thống kê tương ứng cho khối các tập đoàn kinh tế (TĐKT), tổng công ty (TCT), và công ty mẹ - con, vốn chiếm phần lớn giá trị của tất cả các DNNN để phân tích một số khía cạnh có liên quan. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý lại một lần nữa rằng các kết quả phân tích ở phần này có thể vẫn bị ảnh hưởng phần nào bởi sự thay đổi mẫu thống kê qua các năm.

Có thể thấy một sự khá nhất quán về xu hướng cải thiện của TĐKT trên các chỉ tiêu chọn lọc ở bảng 2. Trong khi tổng tài sản tiếp tục tăng (dù số lượng doanh nghiệp nhỏ đi), mức tăng của nợ phải thu có chiều hướng chậm lại và chậm hơn mức tăng tổng tài sản. Đặc biệt, mức nợ phải thu khó đòi cũng đã tăng chậm lại, thậm chí còn tụt giảm trong năm 2016, bù vào chuyện tỷ lệ nợ phải thu trên tổng tài sản tăng nhẹ hoặc không thay đổi trong ba năm qua. Đây là những chỉ báo tích cực về tình hình công nợ của DNNN.

Tỷ lệ tồn kho trên tổng tài sản đã giảm hoặc theo hướng ổn định cho thấy mối lo về tồn kho đã vơi bớt phần nào, không quá căng thẳng như các năm trước.

Về chuyện nợ nần, mức tăng nợ đã “khiêm tốn” hơn từ năm 2015, đặc biệt là khi hệ số tổng nợ phải trả trên tổng nguồn vốn giảm dần liên tục trong ba năm qua, trong khi tổng tài sản tiếp tục tăng. Thực tế này cho thấy gánh nặng nợ vay tại các DNNN đã có dấu hiệu cải thiện.

Nhờ vốn chủ sở hữu tăng (từ các nguồn nêu ở trên) nên hệ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản cũng tăng dần, cho thấy mức an toàn hoạt động của DNNN nhìn chung cũng đã có sự cải thiện nhę.

Tóm lại, qua báo cáo của Chính phủ, tuy vẫn còn hạn chế về phạm vi và tính nhất quán về thông tin được cung cấp, có thể thấy một bức tranh đan xen sáng tối liên quan đến DNNN, từ chuyện không tuân thủ quy định về báo cáo của không chỉ DNNN mà còn của cơ quan chủ quản, đến chuyện hiệu quả hoạt động (thể hiện ở mức sinh lợi) có xu hướng suy giảm song song với sự cải thiện nhẹ về chỉ số an toàn hoạt động.

Friday 3 November 2017

Nên dứt khoát với việc cho phá sản ngân hàng (Bài đăng trên TBKTSG, 3/11/2017)


http://www.thesaigontimes.vn/166264/Nen-dut-khoat-voi-viec-cho-pha-san-ngan-hang.html
Hiện dự thảo Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi đang được đưa ra thảo luận tại Quốc hội. Một trong những vấn đề quan trọng trong lần sửa đổi này là việc cho phép cho phá sản các tổ chức tín dụng (TCTD) được kiểm soát đặc biệt như là một phương án cuối cùng sau khi đã thực hiện không thành công các phương án tái cơ cấu khác.
Việc cơ cấu lại TCTD bằng hình thức phá sản được cho là một hình thức răn đe, là động lực để các TCTD nâng cao chất lượng quản trị điều hành và trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn tiền huy động, từ đó nâng cao ý thức người gửi tiền và khách hàng lựa chọn TCTD có uy tín, chất lượng dịch vụ tốt.
Chuyển biến mới về nhận thức
Những đề xuất thay đổi như trên là một bước tiến lớn nếu so với chủ trương không để bất cứ ngân hàng nào phá sản trước đây, vốn đã vô hình trung biến thành một thứ bùa hộ mệnh cho giới chủ nhiều ngân hàng tiếp tục làm ẩu. Cũng vì chủ trương này mà dân chúng, những người gửi tiền, cũng chẳng bận tâm đến chất lượng an toàn của ngân hàng mà họ gửi tiền vào, miễn là các ngân hàng này sẵn sàng trả lãi cho tiền gửi của họ cao hơn các ngân hàng khác.
Tuy vậy, nhận thức mới nêu trên xem ra vẫn còn khá lấn cấn, e ngại với điều cấm kỵ “phá sản ngân hàng”, bởi cái cách quy định cho phá sản chỉ là phương án cuối cùng sau khi các phương án tái cơ cấu khác không thành công. Có lẽ các nhà làm luật vẫn lo sợ viễn cảnh đổ vỡ hàng loạt ngân hàng khác theo kiểu lây lan dây chuyền nếu để cho một ngân hàng yếu kém phá sản. Vì vậy, việc phá sản chỉ được coi là bước đường cùng, trong hoàn cảnh “cực chẳng đã”.
Sự lấn cấn, e ngại này sẽ dẫn đến một số hậu quả không mong muốn.
Thứ nhất, khi TCTD đã rơi vào hoàn cảnh bị kiểm soát đặc biệt và thậm chí đến mức thuộc đối tượng bị cho phá sản, tức là nó đã rơi vào hoàn cảnh rất ngặt nghèo, cần được khẩn trương xử lý càng sớm càng tốt. Nhưng do lo sợ phải cho TCTD này phá sản, hoặc do bị cấm bởi luật sửa đổi, các cơ quan chức năng sẽ buộc phải tiếp tục thí điểm hết tất cả các phương án khác cho đến khi nào rút ra được kết luận là TCTD này “vô phương cứu chữa”, chỉ còn giải pháp cho phá sản. Lúc đó thì việc cho phá sản TCTD có khả năng đã trở nên quá muộn, để lại nhiều hậu quả xấu cho ngân sách, cho hệ thống ngân hàng và cho toàn bộ nền kinh tế.
Thứ hai, cũng chính vì thấy được sự e ngại, lấn cấn của nhà làm và thực thi chính sách trong việc để cho TCTD phá sản, và nhìn thấy được khả năng bị cho phá sản là không cao, các ông chủ ngân hàng và nhất là giới gửi tiền (cả cá nhân và doanh nghiệp) tiếp tục làm ẩu, không bận tâm đến các chỉ tiêu an toàn, dù ở mức độ có thể ít hơn trước đây và hiện nay. Nói cách khác, loại rủi ro đạo đức kiểu này, vốn biến Chính phủ thành con tin, sẽ vẫn tiếp tục tồn tại trong ngành ngân hàng cho dù khả năng bị trừng phạt bằng hình thức phá sản đã có (nếu Luật về các TCTD sửa đổi được thông qua).
Đã “thông” thì phải thông suốt
Do những hậu quả nêu trên, phương án cho phá sản TCTD nên là một trong những phương án cần được xem xét song song với các phương án tái cơ cấu khác, thay vì là biện pháp cuối cùng. Nếu các phân tích chuyên môn cho thấy TCTD chỉ còn nước cho phá sản thì nhà chức trách cần thiết phải cương quyết cho nó phá sản, không bị trói buộc bởi quy định hay tư tưởng “không thử (các phương án khác) thì không biết”.
Với lo ngại về sự đổ vỡ lây lan, dây chuyền khi để cho một TCTD phá sản, phải thừa nhận rằng đây cũng là một khả năng có thật, có thể xảy ra. Nhưng khả năng này sẽ được giảm thiểu trước tiên bởi chính sự không khoan nhượng, không dễ dãi của nhà chức trách với những sai lầm, yếu kém của giới chủ ngân hàng.
Một khi thị trường và người dân thông suốt rằng cho phá sản TCTD là nhà chức trách đang tìm cách loại bỏ ung nhọt ảnh hưởng đến sinh mạng của toàn bộ hệ thống, và một khi hàng loạt biện pháp cả ngăn ngừa lẫn xử lý tình huống khác mà nhà chức trách đã và sẽ thi hành thì ảnh hưởng của sự phá sản một TCTD lên hệ thống sẽ có thể kiểm soát được.
Các biện pháp xa và gần
Các cuộc khủng hoảng, bất ổn tài chính ở châu Á, Mỹ và châu Âu năm 2007 và các năm sau đó cho thấy việc dùng tiền thuế của dân để cứu những ngân hàng có vấn đề nhằm ngăn chặn sự đổ vỡ lây lan không luôn là điều tốt, cần làm.
Một ví dụ cụ thể là trường hợp của Iceland và Ireland, hai quốc gia với nền kinh tế có quy mô tương tự nhau và cùng đối mặt với khủng hoảng tài chính năm 2008-2009.
Trong khi Ireland chọn phương án cứu giúp các ngân hàng của mình thì Iceland, ngược lại, tuyên bố họ chỉ bảo lãnh tài sản công dân của mình mà không phải cho các nhà đầu tư hoặc ngân hàng quốc tế. Thế nhưng, kết quả là Iceland đã nhanh chóng phục hồi và đạt được nhiều chỉ tiêu kinh tế thậm chí còn tốt hơn nhiều nước khác trên thế giới.
Thực tế này làm các nhà kinh tế học trên thế giới đặt câu hỏi phải chăng để ngân hàng phá sản là một lựa chọn mang tính hủy diệt? Cho phá sản không phải là một lựa chọn tồi. Nhưng sẽ là tốt hơn nếu có những giải pháp dài hạn mang tính phòng ngừa, được tiến hành một cách hiệu quả. Mà một trong những giải pháp cần làm trước tiên lại chính là làm cho các TCTD hiểu rõ rằng họ sẽ bị cho phá sản nếu tình hình buộc phải vậy, không có sự cứu trợ của nhà nước.
Giải pháp thứ hai là giảm thiểu khả năng TCTD trở nên “quá lớn để bị cho phá sản” - hiện tượng một TCTD có quy mô quá lớn làm chính phủ lo sợ khi nó phá sản sẽ làm đảo lộn toàn bộ hệ thống ngân hàng, tài chính quốc gia nên không thể để nó phá sản được. Để làm việc này, cần có những chế tài giới hạn khả năng các TCTD phình to quá mức (so với quy mô GDP quốc gia), khống chế những lĩnh vực họ được phép làm với tài sản của mình.
Nên dứt khoát với việc cho phá sản ngân hàng
Phan Minh Ngọc
 

Nên dứt khoát với việc cho phá sản ngân hàng
Phan Minh Ngọc

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).