Sunday 3 June 2018

Khối ngoại bán ròng, không hẳn vốn nước ngoài đảo chiều (Bài đăng trên TBKTSG, 3/6/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/273287/khoi-ngoai-ban-rong-khong-han-von-nuoc-ngoai-dao-chieu.html


Thống kê trên thị trường chứng khoán cho thấy từ tháng 2 đến nay nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng hơn 10 nghìn tỷ đồng, trái ngược hoàn toàn với tình trạng mua ròng mạnh diễn ra trong tháng 1 trước đó. Điều này là một trong những lý do Việt Nam-Index đã giảm mạnh, xóa đi toàn bộ thành quả tăng điểm từ đầu năm đến nay.

Tất nhiên là khi nhà đầu tư ngoại bán ròng, và ở mức lớn, rủi ro hiện hữu đi kèm với tình trạng này là tình trạng vốn ngoại tệ đảo chiều, chảy ngược ra nước ngoài, thay vì là chảy ròng vào nền kinh tế như khi mọi chuyện vẫn đang tốt đẹp.

Khi một quốc gia phải chứng kiến dòng vốn nước ngoài chảy ngược ra khỏi biên giới của mình ở quy mô lớn và kéo dài (không phải chỉ là hiện tượng nhất thời, ngắn hạn) thì họ cần phải chuẩn bị đối mặt với những hậu quả như tỷ giá tăng (nội tệ mất giá), lạm phát tăng, ngân hàng nhận được ít tiền gửi hơn do đó cũng phải cắt giảm cho vay, dẫn đến làm giảm đầu tư và, do đó, giảm tăng trưởng GDP thực. Khả năng trả nợ nước ngoài của Chính phủ và doanh nghiệp cũng trở nên khó khăn hơn, ở giác độ là nếu nguồn thu để trả nợ phụ thuộc phần lớn vào thị trường nội địa và/hoặc bằng nội tệ, họ sẽ phải mất nhiều nội tệ hơn cho cùng một khoản trả nợ bằng ngoại tệ.

Nguy hại không kém là sự sụt giảm lòng tin của người tiêu dùng vào nội tệ. Khi họ thấy tài sản bằng nội tệ của mình có khả năng mất giá mạnh (do nội tệ mất giá), họ sẽ tự bảo vệ mình bằng cách chuyển các tài sản của mình ra ngoại tệ hoặc những tài sản khác không niêm yết bằng nội tệ, và/hoặc dịch chuyển các tài sản này ra nước ngoài. Điều này càng làm tăng vòng xoáy chảy máu ngoại tệ à mất giá nội tệ à sụt giảm niềm tin à chảy máu ngoại tệ (capital flight).

Trở lại với trường hợp của Việt Nam. Việc nhà đầu tư ngoại bán ròng là một thực tế được phản ánh trên sổ sách thống kê. Tuy nhiên, chỉ từ việc bán ròng này thì khó có thể khẳng định rằng đã và đang có hiện tượng đảo chiều vốn nước ngoài, hoặc nghiêm trọng hơn, chảy máu ngoại tệ. Có một số yếu tố không ủng hộ quan ngại rằng đang có hiện tượng đảo chiều vốn nước ngoài.

Thứ nhất, theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) đã đạt mức 1,89 tỷ đô la Mỹ trong quý 1 năm nay, tăng 121,6% so với cùng kỳ năm 2017. Như vậy, nếu đã có một sự đảo chiều của vốn ngoại thì sự đảo chiều này chỉ mới diễn ra gần đây, và phải ở quy mô rất lớn, hàng tỷ đô la, trung hòa toàn bộ lượng vốn FII đã đổ vào trong quý 1 để có thể sinh ra tình trạng đảo chiều vốn ngoại (đổ ra ròng) như dư luận đang lo ngại. Tuy nhiên, khả năng đảo chiều này lại cũng khó xảy ra, khó là hiện thực, nếu xét đến yếu tố thứ hai.

Đó là, dù nhà đầu tư ngoại đã bán ròng (từ tháng 2), nhưng lượng vốn thu được từ việc bán ròng này không nhất thiết được chuyển hết thành ngoại tệ, và cũng không nhất thiết được chuyển ra nước ngoài. Rất có thể nhà đầu tư ngoại vẫn đang nắm giữ một phần vốn từ bán ròng này ở trong các tài khoản ngân hàng ở Việt Nam, bằng tiền đồng (để, ví dụ, chờ đợi cơ hội đầu tư mới). Bởi vậy, sự bán ròng của khối ngoại nhìn chung đã không gây ra sự đảo chiều vốn ngoại ở Việt Nam trong thời gian qua.

Tất nhiên là không thể loại trừ có một số nhà đầu tư ngoại đã chuyển hóa số vốn thu hồi thành ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài. Nhưng nếu điều này diễn ra ở quy mô đáng kể thì nó sẽ được phản ánh ngay vào yếu tố thứ ba, đó là tỷ giá tiền đồng. Thực tế, tỷ giá tiền đồng/đô la Mỹ chỉ tăng đáng kể vào từ hạ tuần tháng 3, nhưng lại dịu đi sau đó, và mới chỉ “bùng lên” từ giữa tuần trước, tăng tổng cộng khoảng 90 đồng cho đến ngày 29/5. Như vậy, dù được cho là tăng ở mức rất mạnh trong năm nay nhưng tỉ giá cũng chỉ tăng khoảng 0,4%, một mức tăng vẫn cần được theo dõi trước khi kết luận là đã thành xu hướng nguy hiểm và kéo dài.

Cũng có thể có ý kiến cho rằng tỷ giá niêm yết ở ngân hàng (và tỷ giá trung tâm của Ngân hàng Nhà nước) không phản ánh đúng tình trạng căng thẳng ngoại tệ ở Việt Nam, nên không thể căn cứ vào sự ổn định tương đối về tỷ giá trong thời gian qua để phủ nhận khả năng đã có sự đảo chiều vốn ngoại tệ. Tuy vậy, ít nhất thì sự “lình xình” của tỷ giá tiền đồng/đô la Mỹ trên thị trường tự do (và không quá cách biệt với tỷ giá niêm yết trong ngân hàng thương mại) cũng là một hàn thử biểu cho thấy không có sự căng thẳng về cung cầu đô la Mỹ tại Việt Nam cho đến hiện tại (với giả thiết là đã có hàng tỷ đô la Mỹ được nhà đầu tư ngoại mua và chuyển ra nước ngoài).

Và cũng sẽ có ý kiến cho rằng sự đảo chiều vốn nước ngoài từ FII đã được “che lấp” bởi sự tiếp tục đổ vào (ròng) của luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), và, do đó, ở góc độ này, Việt Nam đã “may mắn” tránh được hậu quả của sự chảy máu ngoại tệ. Khả năng có sự bù đắp này cũng có thể là sự thật, nhưng lý do chủ yếu nằm ở sự khác biệt về bản chất giữa FDI và FII, khi FDI là dòng vốn có tính chất dài hạn, không biến động ngắn hạn, nhất thời như FII. Và suy cho cùng, xét trên góc độ ổn định vĩ mô, FDI hay FII không quan trọng bằng, về tổng thể, lượng ngoại tệ đang có ở Việt Nam không bị suy giảm đi (thậm chí tăng lên) ở mọi thời điểm.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).