Cái may này không
phải hiển nhiên là đúng với tất cả mọi người. Nó hiển nhiên là đúng với người tiêu
dùng, người sử dụng xăng dầu và hiển nhiên là sai với nhà khai thác và xuất khẩu
dầu. Nhưng vì Việt Nam là nước nhập siêu sản phẩm xăng dầu, và vì nghĩ kỹ hơn
thì giá dầu giảm còn là điều may mắn với kể cả bên thứ ba là (ngân sách) Nhà nước,
nên rõ ràng giá dầu giảm là điều tốt lành nhiều hơn, chứ không phải là một tai
họa, cho Việt Nam nói chung, trái với những trường hợp tiêu cực như Nga,
Venezuela và Saudi Arabia.
Sự may mắn cho
ngân sách đến từ giá dầu tụt thấp thoạt nghe tưởng là nghịch lý vì nếu giá dầu
giảm thì phần nộp vào ngân sách nhà nước từ những nhà khai thác dầu như Petro
Việt Nam sẽ phải giảm theo. Đúng vậy, nhưng sự việc không dừng lại ở đó.
Thứ nhất, đóng
góp từ dầu thô vào tổng thu ngân sách nhà nước đã giảm dần trong những năm qua
và giảm mạnh hơn trong năm 2015. Theo số liệu trên báo chí thì thu từ dầu thô
năm 2012 là 18,9% tổng thu ngân sách; năm 2013 giảm còn 12,1%, năm 2014 còn
10,1% và năm 2015 chỉ còn khoảng 6%. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là sự tụt giảm giá
dầu. Điều này rõ ràng không phải là điều dễ chịu với không chỉ với những doanh
nghiệp như Petro Việt Nam mà còn với Chính phủ, với ngân sách nhà nước. Nhưng
cũng chính thực tế này đã buộc Chính phủ phải có những biện pháp đối phó thích ứng
để một mặt là đa dạng hóa nguồn thu và mặt khác là khống chế chi ngân sách. Kết
quả là tổng thu ngân sách không hề bị sụt giảm tương ứng với khoản thất thu từ
khai thác và xuất khẩu dầu thô như lo ngại ban đầu. Về chi ngân sách, kết quả
khống chế chi ngân sách tuy không được như ý (khi chi tiêu vẫn tăng và thâm hụt
ngân sách vẫn ở mức lớn, 5-6% GDP trong các năm qua), nhưng rõ ràng là Việt Nam
đã tìm được cách “sống chung với lũ”, thích nghi được với môi trường giá dầu thấp.
Thứ hai, và liên
quan đến điều thứ nhất, là dầu mỏ không phải là nguồn tài nguyên dồi dào ở Việt
Nam, múc mãi không hết như ở các quốc gia dầu lửa khác. Dù giá dầu có đứng ở mức
cao như trước đây thì sản lượng khai thác sẽ phải tụt giảm hoặc chi phí khai
thác sẽ phải ngày càng cao hơn do phải tăng cường khai thác ở những mỏ xa hơn,
điều kiện khai thác khó khăn hơn. Trong bối cảnh như vậy, sớm muộn thì Việt Nam
cũng phải tìm cách chuyển mạnh sang tìm kiếm và tăng cường các nguồn thu ngân
sách khác.
Tất nhiên là nếu
dồn nhân lực, vật lực vào ngành khai thác dầu thô thì Việt Nam có thể kéo dài
nguồn cung dầu thô được thêm một thời gian nữa nhờ tăng được trữ lượng khai
thác tiềm năng và khả thi. Nhưng thực tế cho thấy những nền kinh tế phụ thuộc
nhiều vào tài nguyên thì thậm chí sự dồi dào tài nguyên lại trở thành một lời
nguyền cho nền kinh tế đó, khi nó tạo ra một nền kinh tế què quặt, phụ thuộc
quá nhiều vào những cơn trồi sụt giá cả và nhu cầu trên thế giới. Thực trạng u
ám hiện nay ở Nga, Venezuela, Nigeria, Irag và ngay cả những nước giầu có hơn
như Saudi Arabia là một minh chứng rõ nét cho lời nguyền này, vì cuộc vui nào rồi
cũng tàn, sự thịnh vượng đến từ may mắn trời cho là có nhiều dầu sẽ ngày nào đó
vụt trôi đi khi thế giới không còn trong cơn khát dầu như trước nữa.
Nếu Việt Nam đã đổ
tiền của vào tăng cường năng lực và sản lượng khai thác dầu thô để rồi gặp phải
cơn sốc giá dầu như hiện nay thì đó là một khoản đầu tư quá tồi, tuy là một điều
không may mắn (nên nhớ rằng ngay cả trong năm 2015 không mấy ai đã dự đoán đúng
được sự thê thảm như hiện nay của giá dầu). Bởi vậy, có thể nói ngược lại rằng sự
không dồi dào về trữ lượng và điều kiện khai thác ngày càng khó khăn hơn với
chi phí cao hơn, cản trở khả năng đầu tư mở rộng khai thác dầu ở Việt Nam lại
là một điều may mắn hiện nay khi đã tiết kiệm một nguồn lực kinh tế lớn và được
sử dụng vào những ngành khác có lợi thế hơn ở Việt Nam. Cơ cấu nền kinh tế vì
thế cũng trở nên cân đối và lành mạnh hơn.
Thứ ba, Việt Nam
là một nước nhập siêu sản phẩm xăng dầu nên đương nhiên sự tụt giảm giá dầu quốc
tế có tác dụng cắt giảm chi phí đầu vào cho toàn bộ nền kinh tế, kích hoạt tiêu
dùng và sản xuất. Và đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến nguồn thu
ngân sách được đảm bảo trong những năm qua, đúng như phân tích của một số
chuyên gia trước lo ngại của dư luận về nguồn thu dầu thô tụt giảm.
Nói tóm lại, giá
dầu thô tụt giảm đã tỏ ra hoàn toàn không phải là một mối đe dọa với nền kinh tế
Việt Nam nói chung và ngân sách nhà nước nói riêng. Nhưng có đôi điều cần nói
thêm ở đây là cách thức bù đắp sự thất thu từ khai thác và xuất khẩu dầu ở Việt
Nam. Trước tiên, đành rằng phải tìm cách tìm nguồn thu mới hoặc tăng cường khai
thác nguồn thu hiện tại để bù đắp thất thu từ dầu. Nhưng không nên vì nhân danh
chuyện này mà lạm dụng các nguồn thu theo kiểu “tận diệt”. Thay vào đó, cần
luôn ghi nhớ chuyện dưỡng thu. Chính câu chuyện về giá dầu và thu ngân sách cho
thấy nếu chi phí đầu vào cho một ngành nào đó giảm đi thì phần nộp ngân sách sẽ
có thể tăng lên mai sau. Trên nghĩa này, đôi khi thay vì tăng thuế phí ở một số
ngành để đảm bảo chỉ tiêu thu ngân sách, phải có những thời gian và biện pháp hạ
thuế phí hiện tại để tăng thu trong tương lai.
Điều cần nói khác
là đối phó với thất thu từ giá dầu giảm thì không nên chỉ tập trung vào phía
thu. Quan trọng không kém là phải có những biện pháp giảm chi tương ứng. Việc
này từ trước đến nay xem ra vẫn là một vùng trắng trong hành động của Chính phủ
khi với lý do này hay lý do khác, chi ngân sách hàng năm vẫn tăng đều. Giảm
chi, chi tiêu hợp lý và đúng đắn hơn không những giảm áp lực nợ công mà còn
giúp cho các ngành trong nền kinh tế “dễ thở” hơn khi Chính phủ không phải chăm
chăm vào chuyện tận thu để đảm bảo mục tiêu thâm hụt ngân sách. Bởi vậy, song
song với việc lập dự toán thu ngân sách trong bối cảnh giá dầu giảm mạnh và còn
có khả năng giảm xuống nữa, Chính phủ cần “quyết liệt” đặt ra và thi hành mục
tiêu cắt giảm chi ngân sách. Những hạng mục nào lãng phí, không hiệu quả, có thể
cắt giảm, và đâu là những “lỗ đen” ngân sách… thì đã rõ, chỉ còn lại việc Chính
phủ có muốn làm đến nơi đến chốn hay không mà thôi.
No comments:
Post a Comment