Monday, 4 January 2016

Có gì mới trong chính sách tỷ giá sắp tới? (Bài đăng trên CafeF, 1/1/2016, bản gốc)

 http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/co-gi-moi-trong-chinh-sach-ty-gia-sap-toi-20160101160816437.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết họ đang nghiên cứu một cơ chế điều hành tỷ giá mới, thông qua việc xác định tỷ giá trung tâm, làm tham chiếu cho các thành viên trên thị trường giao dịch. Tỷ giá trung tâm được hiểu là tỷ giá chính thức cuối ngày hôm trước vào giờ chốt giao dịch cộng với một biên độ sẽ được lấy làm tỷ giá giao dịch của ngày hôm sau.
Việc xác định tỷ giá trung tâm được cho là sẽ dựa trên 3 yếu tố: sự biến động của một rổ các đồng tiền của các nước đối tác kinh tế chủ chốt của Việt Nam, tỷ giá bình quân liên ngân hàng của ngày liền trước, và các cân đối vĩ mô. Do đó, cơ chế mới được kỳ vọng sẽ phản ánh thị trường sát thực hơn, hợp lý hơn; đồng thời hạn chế yếu tố tâm lý trên thị trường. Ngoài ra, cơ chế mới sẽ tăng cường công khai minh bạch hơn, qua đó để hạn chế các yếu tố đầu cơ.
Cũng theo NHNN, tỷ giá trong năm 2016 sẽ duy trì ổn định chứ không cố định, vì khi áp dụng cơ chế tỷ giá mới thì tỷ giá sẽ thay đổi thường xuyên, thậm chí hằng ngày, hôm nay NHNN có thể công bố tỉ giá này và ngày mai công bố tỉ giá khác.
Điểm đáng chú ý đầu tiên trong thông điệp của NHNN là việc nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa ổn định và cố định. Trên thực tế, tỷ giá VND trong mấy năm qua tuy có biến động ít so với tỷ giá của nhiều đồng bản tệ khác trên thế giới nhưng chưa bao giờ được cố định/ấn định ở mức bất biến (mỗi năm ít nhất cũng bị phá giá từ 1% đến hơn 5%). Bởi vậy, khó mà có thể nói rằng tỷ giá VND trong thời gian qua là cố định và nay sẽ được (hoặc cần phải) chuyển sang duy trì ổn định như trong thông điệp của NHNN.
Về thông điệp duy trì ổn định tỷ giá, do tỷ giá chưa bao giờ được duy trì cố định (một cách thành công) nên khi NHNN nói rằng muốn duy trì ổn định tỷ giá thì cần phải hiểu rằng tỷ giá sẽ chỉ được biến động ở mức nhỏ xung quanh một mức tham chiếu nào đó. Và cũng cần nhấn mạnh rằng mức tham chiếu này phải là cố định thì mới có thể có được môt tỷ giá ổn định. Bởi nếu ngay cả mức tham chiếu này cũng trồi sụt thì kết cục là tỷ giá cũng sẽ trồi sụt, ở mức lớn hơn, và do đó không thể nào gọi đó là tỷ giá ổn định được. Nhưng trên thực tế thì NHNN trong suốt mấy năm qua cũng đã cố gắng thực hiện cơ chế này, thông qua việc xác định tỷ giá bình quân liên ngân hàng và biên độ dao động quanh tỷ giá này, ban đầu là tương đối nhỏ rồi sau phải nới rộng ra (1% đến 3%). Nói cách khác, bản chất hay mục tiêu của cơ chế tỷ giá mới sẽ không có gì mới, ít nhất là trong năm 2016.
Về kỳ vọng rằng cơ chế tỷ giá mới sẽ phản ánh thị trường sát thực hơn và minh bạch hơn, điều này chỉ đúng khi việc tính toán và công bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng cuối ngày giao dịch hôm trước là trung thực, khách quan, dựa nhiều hơn vào các yếu tố căn bản, trong đó có tỷ giá thực trên thị trường liên ngân hàng, và dựa ít hơn vào “sự chủ động kiểm soát của NHNN”. Bằng không, việc “hôm nay NHNN có thể công bố tỉ giá này và ngày mai công bố tỉ giá khác” như NHNN tuyên bố sẽ mang lại tác dụng phụ không mong muốn là gây ra mối hồ nghi và quan ngại về tính thị trường của tỷ giá trong dư luận.
Cũng nên lưu ý rằng NHNN cho đến nay vẫn áp dụng cơ chế điều hành tỷ giá dựa trên tỷ giá bình quân liên ngân mà NHNN công bố hàng ngày cộng với biên độ giao dịch được phép. Bởi vậy, về bản chất, cơ chế tỷ giá mới mà NHNN cho biết là đang xây dựng (dựa trên tỷ giá trung tâm) sẽ không phải là một sự đổi mới, mang tính bước ngoặt hay tính cách mạng. Nó chỉ là sự mở rộng cơ chế tỷ giá cũ, chuyển từ tỷ giá liên ngân hàng sang tỷ giá trung tâm có một phần dựa trên tỷ giá liên ngân hàng. Nhưng cũng chính vì sự mở rộng này nên tính minh bạch, khách quan và dễ lường trước được của tỷ giá trung tâm càng suy giảm hơn so với cơ chế tỷ giá chỉ sử dụng tỷ giá liên ngân hàng.
Đó là chưa kể đến thực tế rằng mặc dù được gọi là tỷ giá bình quân liên ngân hàng và lẽ ra phải biến động mỗi ngày, nhưng tỷ giá này do NHNN công bố thường bất biến trong một thời gian tính bằng nhiều tháng. Nay chuyển sang tỷ giá trung tâm thì mặc dù tỷ giá trung tâm này được tính toán một phần dựa vào sự biến động của một rổ tiền tệ nhưng cũng chẳng có gì bảo đảm rằng tỷ giá trung tâm này không bị NHNN “trói” ở mức ấn định nào đó theo ý đồ để “trói” tỷ giá giao dịch thực tế trên thị trường nếu nó đi chệch quỹ đạo định hướng của NHNN hoặc đối mặt với áp lực điều chỉnh quá mức mong muốn của NHNN.
Cuối cùng, một điểm được cho là mới trong cơ chế tỷ giá mới là nó chuyển sang chế độ tỷ giá “trườn bò” cho phép tỷ giá biến động với tần suất lớn hơn (hàng ngày) nhưng ở mức độ nhỏ hơn, không tạo ra những cú sốc lớn, thay vì chế độ “neo” tỷ giá để rồi mỗi lần phải điều chỉnh thì sẽ phải điều chỉnh ở mức lớn như trước đây. Nhưng cơ chế “trườn bò” này chỉ mang lại tác dụng như kỳ vọng nếu việc xác định tỷ giá trung tâm là khách quan, trung thực, minh bạch và hợp lý như nói ở trên. Nếu không, cơ chế “trườn bò” này cũng không khác gì, không tiến bộ hơn cơ chế “neo” tỷ giá trước đây. 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).