Nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Lê Đức Thúy chỉ
ra 2 vấn đề liên quan đến chính sách hạ lãi suất tiền gửi USD về % hồi cuối năm
2015 của NHNN.
Một là huy động ngoại tệ vẫn nhiều hơn cho vay. Điều này
chứng tỏ găm giữ ngoại tệ trong dân đang tăng lên, việc đưa lãi suất USD về 0%
cũng không làm giảm nhu cầu tích trữ ngoại tệ của thị trường. Chứng minh cho nhận
định này, ông Thúy cho biết trong năm 2014, vốn huy động ngoại tệ chỉ tăng ở mức 4,7% so với năm
trước, nhưng trong năm 2015, con số này đã tăng lên 14,3%, mức tăng gấp 3 lần. Trong
khi đó, vốn huy động VNĐ có chiều hướng giảm tốc khi chỉ tăng 16,3% so với năm
2014, trong khi năm trước đó, con số này là 19,3%.
Hai là, trong khi vốn huy động USD tăng, người dân và doanh nghiệp lại
có xu hướng dịch chuyển tiền gửi ngoại tệ từ có kỳ hạn sang không kỳ hạn. Rõ
ràng, cùng một mức lãi suất bằng 0, việc gửi không kỳ hạn linh động hơn rất
nhiều cho người găm giữ ngoại tệ. Việc này gây ra vấn đề các ngân hàng không
phải lúc nào cũng huy động đủ vốn ngoại tệ để cho vay.
Hai nhận định trên của ông Thúy là rất xác đáng, chỉ rõ mặt trái và sự
kém hiệu quả của chính sách lãi suất tiền gửi USD trên của NHNN, một chính sách
mà đã nhận được không ít lời tán dương của nhiều chuyên gia và quan chức khi nó
mới được ban hành.
Nhưng mặt khác, điều đáng nói là ông Thúy lại thắc mắc: “Tại sao trong bối cảnh
lãi suất USD huy động trong dân là 0%, một ngân hàng Việt Nam lại phải đi vay ngoại tệ từ bên ngoài”. Cụ thể là ông Thúy đề cập đến việc một ngân hàng thương mại
lớn của Việt Nam mới đây phải vay 200 triệu USD từ Đài Loan.
Thực ra, câu trả lời cho thắc mắc trên của ông Thúy đã có
phần lớn ở ngay trong 2 nhận định trên của ông.
Thứ nhất, do tâm lý găm giữ ngoại tệ của người dân đã
tăng lên, sẽ càng có ít người dân muốn bán USD nắm giữ thành tiền đồng để gửi
vào hệ thống ngân hàng hưởng lãi, dù lãi suất tiền gửi bằng tiền đồng cao hơn
nhiều so với lãi suất tiền gửi USD (đã xuống còn 0% từ cuối năm 2015), trong
khi tỷ giá tiền đồng thì được trấn an là sẽ không có biến động mạnh nữa, nhất
là kể từ khi NHNN đưa ra cơ chế tỷ giá trung tâm biến động hàng ngày. Thứ hai,
nếu người dân có gửi USD vào hệ thống ngân hàng thì họ chỉ gửi không kỳ hạn, có
nghĩa là họ có thể rút ra bất cứ lúc nào mà không bị ràng buộc bởi bất cứ điều
kiện nào có hại cho họ.
Từ 2 điều trên có thể thấy rõ rằng do tác động bất lợi
gây ra bởi chính sách lãi suất tiền gửi USD 0% của NHNN nên hệ thống ngân hàng
Việt Nam đã không nhận được một lượng USD cần thiết từ nguồn tiền gửi của dân
cư (và cả doanh nghiệp) để đáp ứng nhu cầu cho vay hoặc kinh doanh trong nước.
Quan trọng không kém, lượng tiền gửi USD của dân cư và doanh nghiệp trong nước
nếu có thì đã bị rút ngắn thời hạn, hầu hết thành không kỳ hạn, thay vì có kỳ hạn
như trước khi NHNN ra chính sách hạ lãi suất tiền gửi USD về 0%.
Trong bối cảnh nguồn cung USD ở trong nước bị sụt giảm
còn kỳ hạn gửi thì bị cắt ngắn, có rủi ro bị rút ra bất cứ lúc nào, các ngân
hàng rất khó có thể cân đối được số lượng
và kỳ hạn giữa vốn huy động và vốn cho vay. Nên thường khi có nhu cầu về USD các
ngân hàng thương mại (và doanh nghiệp) buộc phải tìm đến nguồn cung thương mại
từ bên ngoài, và điều này giải thích tại sao có ngân hàng phải sang Đài Loan
vay 200 triệu USD như nói ở trên.
Chưa hết, như báo chí đã đưa tin, nhiều ngân hàng hiện
nay vẫn “đi đêm” với khách hàng có lượng tiền gửi USD đáng kể, thông qua chào mời
trả lãi suất cho khoản tiền gửi của họ mà không thể hiện trên sổ sách để khó bị
phát hiện bởi lực lượng thanh tra của NHNN. Khi các ngân hàng vẫn phải trả lãi
cho nguồn USD huy động trong nước thì đương nhiên ở đầu ra, ví dụ là thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng, các ngân hàng này cũng phải tính lãi suất cho vay (cao
hơn) khi họ cho vay các ngân hàng khác. Tương tự như vậy với các doanh nghiệp
khi phải đi vay USD từ ngân hàng thương mại trong nước. Do đó, đôi khi vay từ
nước ngoài lại rẻ hơn và/hoặc vay được nhiều hơn nếu so với chỉ trông chờ vào
nguồn cung USD hữu hạn trong nước vốn đã bị thắt chặt thêm và làm biến dạng kỳ
hạn một cách không thể lên kế hoạch sử dụng được bởi chính sách lãi suất tiền gửi
ngoại tệ 0% của NHNN.
Cũng qua những phân tích về những tồn tại và bất hợp lý
như trên, NHNN cần nhanh chóng xem xét, điều chỉnh lại chính sách chống đô la
hóa của mình theo hướng hợp lý hơn, bằng những biện pháp hữu hiệu hơn những
chính sách và biện pháp như hiện tại.
No comments:
Post a Comment