Monday, 1 October 2018

DATC vẫn chỉ nên như trước đây (Bài đăng trên TBKTSG, 1/10/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/279197/datc-van-chi-nen-nhu-truoc-day-.html

Bộ Tài chính đang dự thảo nghị định về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Công ty TNHH một thành viên Mua bán nợ Việt Nam (DATC). Bối cảnh đưa ra nghị định mới này, theo Bộ Tài chính, là sau một thời gian hoạt động, DATC đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc về cơ chế hoạt động. Ngoài ra còn có sự thay đổi thị trường mua, bán nợ cũng như so sánh sự tương đồng về nhiệm vụ với Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC)...

Do đó, theo dự thảo nghị định mới, DATC được mở rộng phạm vi đối tượng hoạt động, bổ sung một số chức năng, nghiệp vụ trong việc mua, bán, tiếp nhận, xử lý nợ và tài sản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như khả năng xử lý tài sản, thu hồi nợ. Công ty cũng được ưu tiên mua, xử lý nợ và tài sản của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thực hiện sắp xếp, chuyển đổi sở hữu để hỗ trợ cho quá trình tái cơ cấu.
Cụ thể, về chức năng nhiệm vụ, DATC có thêm chức năng là công cụ của Chính phủ tham gia xử lý nợ xấu của các tổ chức kinh tế, tham gia hình thành và phát triển thị trường mua bán nợ có tổ chức và có sự quản lý của Nhà nước. Lưu ý, đây là chức năng tương đồng so với VAMC. Về hoạt động, dự thảo nghị định bổ sung một số nội dung như DATC tiếp nhận nợ và tài sản của các đơn vị sự nghiệp công lập khi thực hiện cổ phần hóa theo quy định. DATC cũng tiếp nhận các tài sản khác theo chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng, là các tài sản tồn đọng, các tài sản gắn với xử lý nợ để tiếp tục đầu tư khai thác hoặc xử lý thu hồi cho Nhà nước.
Liên quan đến việc bổ sung nhiệm vụ, chức năng và quyền hạn cho DATC như trên, có hai câu hỏi cần được làm rõ. Thứ nhất, sự bổ sung này có thực sự cần thiết không? Và thứ hai, DATC có hỗ trợ hữu hiệu cho việc xử lý nợ xấu ở Việt Nam hay nó lại chồng chéo với VAMC và các tổ chức mua bán nợ xấu khác?
Về câu hỏi thứ nhất, cần biết rằng tiền thân của DATC là Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, được thành lập theo Quyết định số 109 ngày 5-6-2003 của Thủ tướng. Công ty này thực hiện đồng thời hai chức năng là công cụ của Chính phủ để hỗ trợ cho quá trình sắp xếp, tái cơ cấu DNNN và tổ chức kinh doanh theo cơ chế thị trường. Nhiệm vụ chủ yếu của DATC gồm: tiếp nhận và xử lý nợ, tài sản loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp khi thực hiện sắp xếp, chuyển đổi sở hữu DNNN; tiếp nhận và xử lý nợ, tài sản theo chỉ định của Thủ tướng; mua và xử lý nợ xấu, tài sản tồn đọng theo cơ chế thị trường...
Như vậy, câu trả lời cho câu hỏi liệu có cần thiết bổ sung chức năng và nhiệm vụ của DATC sẽ tùy thuộc vào việc liệu Nhà nước có cần phải thành lập một tổ chức xử lý nợ xấu mới thuộc sở hữu nhà nước (bên cạnh VAMC) để xử lý nợ của các tổ chức kinh tế phi nhà nước không? Nếu câu trả lời là “không” (nên là như vậy và sẽ được nói thêm ở phần sau), thì rõ ràng là DATC chỉ nên có chức năng và nhiệm vụ giới hạn liên quan đến DNNN như trước đây mà thôi (với một chút sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn, chẳng hạn về mua, tiếp nhận và xử lý nợ xấu và tài sản của đơn vị sự nghiệp công lập). Nói cách khác, không cần phải đưa ra quá nhiều thay đổi căn bản về chức năng và nhiệm vụ của DATC như trong dự thảo nghị định.Căn cứ vào các văn bản pháp luật để ban hành Quyết định 109 của Thủ tướng, gồm Luật DNNN và Nghị định 69/2002 về quản lý và xử lý nợ tồn đọng với DNNN thì có thể thấy DATC ban đầu được hình thành để phục vụ đối tượng là DNNN. Nhưng theo dự thảo nghị định mới thì DATC có đối tượng phục vụ là doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nói chung, không còn bó gọn trong phạm vi DNNN nữa.
Về câu hỏi thứ hai - DATC cạnh tranh hay bổ trợ cho VAMC, câu hỏi này chỉ thích hợp khi Chính phủ vẫn quyết định bổ sung chức năng và nhiệm vụ cho DATC như dự thảo nghị định. Khi đó, hoạt động của DATC sẽ vừa bổ trợ, đồng thời cạnh tranh với VAMC trong việc xử lý nợ xấu.
Cụ thể hơn, VAMC chỉ (được phép) mua, bán, xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng (TCTD), trong khi DATC, nếu theo đúng dự thảo nghị định, sẽ được mua, bán, xử lý nợ xấu không chỉ từ các tổ chức kinh tế nói chung (gồm cả TCTD), mà còn cả cá nhân. Thêm nữa, trong khi VAMC đang kiến nghị được Nhà nước cấp thêm vốn để mua nợ xấu bằng tiền (ngoài mua bằng trái phiếu đặc biệt), thì DATC lại mua nợ hoàn toàn bằng tiền. Xét trên những đóng góp có tính bổ sung này thì rõ ràng là DATC với chức năng và nhiệm vụ mở rộng sẽ có ích cho xử lý nợ xấu ở Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng vì DATC - một DNNN hạng đặc biệt - mua nợ xấu hoàn toàn bằng tiền (và coi như dùng tiền ngân sách) thì vô hình trung DATC sẽ cạnh tranh trực tiếp với không chỉ VAMC mà còn với các tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu phi nhà nước và cá nhân khác.
Trên hết, với sự bổ sung như dự thảo nghị định, DATC được xem là một DNNN mới được thành lập để kinh doanh trong lĩnh vực mua bán nợ xấu (của cá nhân và tổ chức kinh tế phi nhà nước) - lĩnh vực mà Nhà nước không cần, không nhất thiết phải tham gia, ít nhất vì cá nhân và tổ chức kinh tế phi nhà nước hoàn toàn có thể đảm đương được. Vì vậy, về nguyên tắc, Nhà nước không cần trao thêm cho DATC chức năng mua bán, xử lý nợ xấu của tổ chức và cá nhân khác ngoài DNNN và các đơn vị sự nghiệp công lập.
Quan trọng hơn, Việt Nam đã quyết tâm cổ phần hóa, thoái vốn, thu nhỏ khu vực DNNN, giảm thiểu thành lập mới DNNN thì việc bổ sung chức năng và nhiệm vụ, tăng quy mô hoạt động (và theo đó là Nhà nước phải rót thêm vốn điều lệ) cho DATC để “lấn sân” và “giẫm chân” lên VAMC cũng như các tổ chức và cá nhân khác là điều cần tránh. Vì thế, như nói ở đoạn trên, DATC chỉ nên được giới hạn ở việc mua bán xử lý nợ xấu liên quan đến DNNN và các đơn vị sự nghiệp công lập mà thôi.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).