Tuesday, 9 October 2018

Cần sớm quản lý cho vay ngang hàng (Bài đăng trên TBKTSG, 9/10/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/279602/can-som-quan-ly-cho-vay-ngang-hang.html

Cho vay ngang hàng (P2P) là hình thức cho vay cá nhân và doanh nghiệp thông qua các dịch vụ trực tuyến (online) kết nối người vay và cho vay. Vì những công ty cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng thường giao dịch trực tuyến nên chúng có thể hoạt động với chi phí thấp, nhờ đó cung cấp dịch vụ với mức phí cũng thấp hơn so với các tổ chức tín dụng (TCTD). 

Đồng thời, người cho vay cũng hưởng lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngân hàng, còn người vay thì được hưởng lãi suất vay thấp hơn so với vay ngân hàng.

Do cho vay ngang hàng thường là không có, không yêu cầu tài sản bảo đảm, thủ tục đơn giản nhanh gọn nên dịch vụ này rất thích hợp với cá nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa - những đối tượng thường không đáp ứng được yêu cầu để được vay từ các TCTD truyền thống.
Ra đời đầu tiên ở Anh, Canada (2005) và Mỹ (2006), cho vay ngang hàng đến nay đã xuất hiện ở hàng chục nước trên thế giới. Hiện ở châu Á, cho vay ngang hàng đã phát triển mạnh ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia. Việt Nam cũng đang có một số doanh nghiệp cho vay ngang hàng hoạt động khá sôi động.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, về mặt pháp lý, chưa có một doanh nghiệp cho vay ngang hàng nào được quản lý (cấp phép) một cách chính thức, bởi cơ quan chức năng vẫn... “đang có đề án nghiên cứu”. Điều này là trái ngược với chiều hướng chung trên thế giới khi nhiều nước ít nhiều đều đã đưa ra những quy chế và chế tài nhằm quản lý hoạt động cho vay ngang hàng trên lãnh thổ của họ. Vì vậy, cơ quan chức năng Việt Nam cần nhanh chóng nhận diện các rủi ro chính trong lĩnh vực cho vay ngang hàng để có các biện pháp quản lý thích hợp nếu không muốn chứng kiến những vụ việc vi phạm của nhiều doanh nghiệp cho vay ngang hàng gây thiệt hại lớn cho người cho vay như ở Trung Quốc trong thời gian qua.
Rủi ro trong cho vay ngang hàng
Thành công của cho vay ngang hàng phụ thuộc vào việc có bao nhiêu người sẵn lòng cho vay trên các sàn P2P và những biện pháp bảo vệ quyền lợi của người cho vay. Thường không phải tất cả người cho vay nhận diện được các rủi ro gắn liền với việc cho vay của mình qua các doanh nghiệp cho vay ngang hàng.
Về cơ bản, có năm loại rủi ro với người cho vay. Thứ nhất, tiền của người cho vay trên sàn cho vay ngang hàng có thể không được bảo hiểm bởi Chính phủ như với tiền gửi ngân hàng nên họ hoàn toàn có thể trắng tay (trên thực tế, cũng có những doanh nghiệp cho vay ngang hàng như Zopa và RateSettler của Anh cung cấp dịch vụ bảo hiểm thông qua các quỹ bảo hiểm).
Thứ hai, mặc dù nhiều doanh nghiệp cho vay ngang hàng tuyên bố là họ có quy trình đánh giá rủi ro tín dụng của người vay tương tự như của TCTD truyền thống, nhưng họ thường không chia sẻ với người cho vay đánh giá này cũng như các thông tin mà người vay cung cấp cho doanh nghiệp cho vay ngang hàng. Do đó, rủi ro với người cho vay là họ có thể đang ném tiền vào một lỗ đen nào đó.
Thứ ba, cũng giống như việc ngân hàng cũng vướng phải nợ xấu, khó có khả năng thu hồi, bất chấp họ trước đó đã thẩm định, đánh giá rủi ro các khoản vay kỹ lưỡng thế nào, người cho vay có khả năng sẽ gặp rủi ro tương tự. Lúc đó, rủi ro mà người cho vay phải đối mặt tiếp theo là liệu có thu hồi được một phần khoản nợ hay không. Một số sàn có thể hỗ trợ thu hồi vốn nhưng thường phải trả phí. Trường hợp không thu được nợ, người cho vay có thể khởi kiện nhưng giải pháp này không tối ưu nếu giá trị khoản nợ là quá nhỏ so với chi phí, thời gian và công sức bỏ ra theo đuổi kiện tụng.
Thứ tư, vì các giao dịch cho vay được tiến hành trực tuyến nên không thể loại trừ rủi ro sàn giao dịch bị tấn công (hack). Vì vậy, trên lý thuyết, người cho vay cần tìm hiểu và đánh giá được các biện pháp bảo vệ dữ liệu của sàn giao dịch. Nhưng với nhiều người bình thường thì chuyện này là không tưởng, họ đành phó mặc cho may rủi.
Thứ năm, việc thành lập một sàn giao dịch kết nối trực tuyến người vay và cho vay hiện nay đã trở nên đơn giản, nhanh chóng, thậm chí chỉ trong một đêm. Trong số này, không loại trừ nhiều sàn “ma”, lập ra với mục đích lừa đảo. Do đó, rủi ro với người cho vay là không biết được sàn nào là hợp pháp, được cấp phép bởi cơ quan chức năng (kèm với “tóc” để nắm khi lâm sự).
Quản như thế nào?
Với những rủi ro nêu trên và xét đến bối cảnh là ngành đang phát triển nhanh, có nhiều tiềm năng nên khuôn khổ chế tài của cơ quan chức năng liên quan đến cho vay ngang hàng cần hướng đến những mục tiêu sau đây.
Mục tiêu thứ nhất là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng, đặc biệt là người cho vay. Các chế tài cần buộc các doanh nghiệp cho vay ngang hàng cung cấp công khai và đầy đủ mọi thông tin liên quan trên trang web của mình, gồm những thông tin cơ bản như giấy phép hoạt động. Đặc biệt, cần nêu rõ những lợi ích, quyền lợi và rủi ro cho vay ngang hàng (gồm rủi ro mất vốn; khả năng được bảo hiểm, bồi hoàn vốn từ sàn giao dịch; người vay có được quyền trong một thời gian nhất định được hủy hợp đồng vay tiền mà không bị phạt hay không...). Người cho vay cũng cần được cảnh báo đầy đủ và đúng mức về rủi ro tín dụng của người vay. Những điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cả người vay và cho vay có các quyết định đúng đắn, thu hút thêm nhiều khách hàng sử dụng P2P.
Mục tiêu thứ hai là thúc đẩy sự cạnh tranh hữu hiệu, lành mạnh trong ngành cho vay ngang hàng. Theo hướng này, các chế tài cần đặt ra một số tiêu chuẩn tối thiểu mà mọi sàn giao dịch P2P phải đáp ứng được, gồm tình hình tài chính thế nào thì được coi là lành mạnh, mức vốn tối thiểu phải có tương ứng với quy mô vốn vay mà nó huy động nhằm làm khách hàng (người vay và cho vay) tin tưởng rằng sàn giao dịch mà họ giao dịch hôm nay vẫn còn đó vào ngày mai, loại bỏ được những sàn/doanh nghiệp hoạt động mang tính chụp giật, lừa đảo.
Mục tiêu thứ ba là bảo đảm sự phát triển của ngành trong vòng kiểm soát. Việc quản lý nhà nước cần tính tới khả năng, ví dụ, khi được chính thức công nhận và hợp pháp hóa thì ngành cho vay ngang hàng ở Việt Nam sẽ có sự phát triển bùng nổ về quy mô và số lượng, tạo ra rủi ro lớn cho các bên tham gia, như đã diễn ra ở Hàn Quốc. Chỉ trong chưa đầy một năm, từ tháng 3 đến tháng 12-2016, giá trị vốn cho vay qua các sàn giao dịch tại Hàn Quốc đã tăng từ 72 tỉ won lên 312 tỉ won, buộc cơ quan quản lý nước này  sau đó phải đưa ra quy định hạn chế nhằm làm nguội thị trường. Cụ thể, nhà đầu tư nhỏ lẻ chỉ được đầu tư không quá 10 triệu won, nhà đầu tư có chứng nhận chỉ được đầu tư không quá 40 triệu won.
Mục tiêu thứ tư là bảo đảm các sàn giao dịch phải xây dựng và duy trì cơ chế kiểm soát rủi ro, xử lý khủng hoảng một cách minh bạch và chân thực, và có quy trình xử lý một cách đúng đắn tiền huy động của khách hàng. Các quy định cần có gồm tuân thủ quản lý, phòng chống rửa tiền, an ninh mạng, và các biện pháp phòng ngừa rủi ro, cơ chế và nguồn lực xử lý các tình huống như mất khả năng thanh toán, các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp xảy ra trục trặc, đình trệ hoạt động.
Và mục tiêu cuối cùng là bảo đảm các doanh nghiệp cho vay ngang hàng phải xử lý một cách đúng đắn các khó khăn tài chính và khiếu nại của khách hàng, cả người vay và cho vay. Điều này để tránh tình trạng “đem con bỏ chợ” của nhiều sàn giao dịch xảy ra ở đây đó trên thế giới, đẩy rủi ro hoàn toàn về phía khách hàng. 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).