Thursday, 4 October 2018

Ngăn ngừa khuất tất trong cổ phần hóa: Đơn giản là hãy làm đúng luật (Bài đăng trên TBKTSG, 28/9/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/279201/ngan-ngua-khuat-tat-trong-co-phan-hoa-don-gian-la-hay-lam-dung-luat.html

Nhiều vụ việc khuất tất trong cổ phần hóa doanh nghiệp và bán tài sản nhà nước đã được phơi bày gần đây như việc bán đất của Công ty Đầu tư và Xây dựng Tân Thuận, bán sân vận động Chi Lăng, cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại Cảng Quy Nhơn, và cổ phần hóa Hãng Phim truyện Việt Nam (VFS)...

Điểm chung đầu tiên trong các vụ việc lùm xùm này là chúng được các cơ quan hữu trách phát hiện khi quá muộn, sau khi việc mua bán đã xong xuôi một thời gian dài dù trước đó (trước và trong quá trình cổ phần hóa hoặc bán tài sản, cổ phần nhà nước) đã có nhiều dị nghị và dấu hiệu của khuất tất, mờ ám.

Điểm chung khác trong các vụ việc nói trên là mọi việc ban đầu tỏ ra đều “đúng quy trình” nhưng rồi qua thanh tra thì lại thấy hàng loạt sai phạm trong thực hiện quy trình do pháp luật quy định.
Trong bối cảnh này, vấn đề đặt ra là cổ phần hóa, bán tài sản nhà nước thế nào cho đúng để không làm thất thoát tài sản của Nhà nước (và là cơ hội đục khoét, làm giàu bất chính của một số cá nhân và nhóm lợi ích). Và, quan trọng không kém, tiến trình này không làm xấu đi môi trường đầu tư, ảnh hưởng đến quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) khi các nhà đầu tư tư nhân “tự nguyện” hủy hợp đồng mua bán tài sản, hoàn lại tài sản cho nhà nước sau khi cơ quan thanh tra điều tra và kết luận những sai phạm trong quá trình cổ phần hóa, bán tài sản nhà nước và kiến nghị thu hồi lại những tài sản này?
Để tìm câu trả lời cho vấn đề trên, hãy lấy vụ cổ phần hóa VFS làm ví dụ. Theo đó, thanh tra đã chỉ ra nhiều sai phạm lớn. Sai phạm đầu tiên là “Ban chỉ đạo cổ phần hóa không thực hiện việc lựa chọn đơn vị tư vấn định giá doanh nghiệp và tư vấn cổ phần hóa, để công ty lựa chọn là chưa thực hiện đúng pháp luật”. Sai phạm này rõ ràng là nghiêm trọng. Nhưng ban chỉ đạo là những ai và do ai quyết định thành lập?

Theo Nghị định 59/2011/NĐ-CP (là nghị định có hiệu lực trong thời gian cổ phần hóa VFS) về chuyển DNNN thành công ty cổ phần, ban này là do bộ trưởng các bộ, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hoặc hội đồng thành viên các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty có trách nhiệm thành lập.
Thành phần của ban do bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hội đồng thành viên công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con quyết định. Đối với các doanh nghiệp quy mô lớn (vốn trên 500 tỉ đồng), đặc thù... thì thành viên ban chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp có đại diện của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp và Bộ Tài chính.
Như vậy, ban chỉ đạo không chỉ là người của DNNN trực tiếp cổ phần hóa và do doanh nghiệp này chỉ định, mà còn có thành viên ít ra thì cũng là từ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty, tức ở cấp cao hơn/cấp trên của doanh nghiệp cổ phần hóa. Do đó, có thể nói là sự sai phạm được thanh tra chỉ ra ở trên là một sự làm trái quy định pháp luật một cách có hệ thống chứ không phải chỉ do một vài cá nhân trong doanh nghiệp cổ phần hóa.
Quan trọng hơn, ban chỉ đạo dù muốn cũng không thể “tự tung tự tác” trong việc cổ phần hóa doanh nghiệp được, mà phải báo cáo, xin chấp thuận của cấp trên. Cũng theo Nghị định 59, trong số các trách nhiệm của ban chỉ đạo, có các trách nhiệm sau: “Báo cáo cơ quan quyết định cổ phần hóa lựa chọn phương thức bán cổ phần lần đầu”; “thẩm tra và trình cơ quan có thẩm quyền quyết định công bố giá trị doanh nghiệp, quyết định phê duyệt phương án cổ phần hóa”; “tổng hợp báo cáo cơ quan có thẩm quyền kết quả bán cổ phần”; và “tổng hợp và trình cơ quan có thẩm quyền quyết định điều chỉnh phương án cổ phần hóa, quyết định điều chỉnh giá trị doanh nghiệp sau khi chuyển thành công ty cổ phần”.
Như vậy, nếu làm đúng theo luật thì những hành vi trái pháp luật của ban chỉ đạo sẽ bị cơ quan quyết định cổ phần hóa cũng như cơ quan có thẩm quyền phát hiện và kịp thời ngăn cản. Nhưng những chuyện này đã không xảy ra, có nghĩa là các cơ quan có thẩm quyền đã không làm đúng chức trách được luật pháp quy định. Nói cách khác, điều này cũng cho thấy có sự vi phạm pháp luật (vô trách nhiệm hoặc cố ý) một cách có hệ thống.
Tiếp theo, thanh tra cho thấy tại phương án cổ phần hóa VFS, công ty này xây dựng phương án sử dụng đất gồm khu đất ở Thái Văn Lung (TPHCM), Thụy Khuê (Hà Nội) “khi chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt”. Đối chiếu với Nghị định 59, trong nghị định đã có những quy định rất chi tiết, cụ thể về đất đai trong các điều khoản liên quan đến xác định giá trị doanh nghiệp. Và trên hết, rõ ràng là cấp có thẩm quyền phê duyệt đã biết rõ vi phạm này (vì thế mới không phê duyệt).
Nhưng điều lạ là tại sao phương án cổ phần hóa VFS vẫn được phê duyệt bởi cơ quan có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền (bởi có được phê duyệt thì VFS mới trở thành công ty cổ phần như hiện nay). Điều này có nghĩa là cơ quan hoặc cấp có thẩm quyền hoặc là vô trách nhiệm hoặc là cố tình phê duyệt phương án cổ phần hóa VFS dù biết có những sai phạm, dù quy trình phê duyệt cổ phần hóa đã bị vi phạm (khi phương án sử dụng đất chưa được phê duyệt bởi cấp có thẩm quyền).
Chưa hết, hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình cổ phần hóa VFS có thể đã không xảy ra nếu một “chốt chặn” cuối cùng - công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát - được thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc và tất nhiên là đúng quy định của pháp luật.
Cũng theo Nghị định 59, một loạt cơ quan, cấp có thẩm quyền có trách nhiệm kiểm tra, giám sát các mặt có liên quan đến cổ phần hóa, trong đó có Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, Bộ Tài chính, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương... Đáng tiếc là sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ nghiêm túc này đã không xảy ra!
Nói cách khác, những sai phạm trên cho thấy rõ “dấu ấn” của sự vô trách nhiệm hoặc cố ý làm sai quy định của pháp luật một cách có hệ thống của không chỉ bản thân VFS mà còn của các cơ quan, cấp có thẩm quyền cao hơn. Do đó, để ngăn ngừa sự khuất tất, trục lợi trong cổ phần hóa và để tránh phải xử lý hậu quả của nó, điều cần làm là phải truy đến cùng trách nhiệm như quy định trong luật lệ hiện hành với các cá nhân và tập thể có liên quan để xử lý hành chính và hình sự (nếu có). Tuy muộn, nhưng nếu xử lý nghiêm những vụ việc như vậy để làm gương thì mới mong giảm được các hành vi vô trách nhiệm, trục lợi trong cổ phần hóa sau này.
Những giải pháp khác như hoàn thiện pháp luật, tăng cường bộ máy và tầng cấp, ban bệ quản lý cổ phần hóa, hoặc thậm chí là thu hồi vốn nhà nước như đang làm hiện nay sẽ không phải là lời giải cũng như sẽ không mang lại hiệu quả nếu chuyện đơn giản là truy trách nhiệm và xử lý nghiêm sai phạm trong cổ phần hóa không được thực hiện đúng theo quy định của luật pháp.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).