Friday, 19 February 2021

Việt Nam nên làm gì với tiền số ngân hàng trung ương? (Bài đăng trên CafeF, 19/2/2021)

https://cafef.vn/viet-nam-nen-lam-gi-voi-tien-so-ngan-hang-trung-uong-20210219110947028.chn

Trên thế giới ngày càng có nhiều ngân hàng trung ương bắt đầu nghiên cứu và/hoặc phát hành tiền số của mình, gọi tắt là CBDC. Mới đây nhất, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã đưa đồng tiền số của mình vào thử nghiệm với các đối tác thương mại.

Không phải ngẫu nhiên mà các ngân hàng trung ương trở nên mặn mà với tiền số (CBCD) đến như vậy. Có người đã thẳng thừng chỉ ra rằng nỗ lực tạo ra và phổ biến tiền số đơn thuần chỉ là một hành động tự vệ của ngân hàng trung ương.

Tại sao các ngân hàng trung ương phải hành động tự vệ? Bởi họ đang thấy có sự đe dọa cho vị trí độc tôn trong việc kiểm soát tiền tệ và cung tiền.

Vậy ai đe dọa tước đoạt, làm lung lay vị trí này? Đó là các công ty cung cấp dịch vụ thanh toán như Alipay. Đó cũng là các đồng tiền điện tử, tiền ảo khác đã, đang và sẽ được tạo ra bởi tổ chức phi nhà nước.

Tuy vậy, để viễn cảnh một ngày nào đó ngân hàng trung ương có thể trực tiếp tạo ra về mặt điện tử các CBDC sẵn sàng cho người dân chi tiêu thông qua điện thoại di động thành sự thật thì hàng loạt thách  thức, trở ngại cần phải được giải quyết ổn thỏa.

Trở ngại trước tiên là sự riêng tư, bảo mật không được đảm bảo trong việc sử dụng CBDC như với tiền mặt hay các công cụ thanh toán số khác. Không thể loại trừ khả năng các cơ quan chức năng sẽ lạm dụng để theo dõi các giao dịch vượt quá quyền hạn hay sự cần thiết như được yêu cầu trong công tác phòng chống rửa , tiền và các tội phạm tài chính khác. Đối với đồng tiền số của Trung Quốc đang được thử nghiệm, cơ quan chức năng nước này cho phép “sự ẩn danh có kiểm soát”, có nghĩa là người thực hiện các giao dịch có thể không biết được nhau nhưng ngân hàng trung ương thì biết được ai với ai.

Để khắc phục khiếm khuyết lớn này – là khiếm khuyết không thể chấp nhận được ở các nước phương Tây, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đang xem xét đến một loại phiếu (voucher) ẩn danh, cho phép người sử dụng chuyển một lượng tiền số nhất định trong một thời gian xác định trước.

Nhưng do hạn chế về số tiền và thời gian có thể chuyển nên loại voucher kiểu này lại vi phạm nguyên tắc căn bản của tiền tệ là người sử dụng có thể chuyển bao nhiêu vào thời điểm nào cũng được. Do đó, tiền số kiểu này chắc chắn sẽ không được đón nhận và sử dụng rộng rãi.

Trở ngại thứ hai cho việc phát hành và phổ cập tiền số CBDC là người sử dụng bắt buộc phải có điện thoại thông minh và mạng Internet. Như vậy, nếu người nghèo, ở vùng sâu, vùng xa không có mạng và cũng không có điện thoại thông minh thì sẽ không tiếp cận và sử dụng được tiền số (tất nhiên sẽ do quốc gia phát hành). Vì khả năng này là một điều chắc chắn trong một thời gian nữa nên việc phát hành và phổ cập tiền số ở nhiều nước sẽ phải đối mặt với những vấn đề như bất bình đẳng và loại trừ tài chính (financial exclusion).

Một trở ngại lớn khác là sử dụng tiền số CBDC có nghĩa là người sử dụng CBDC để thanh toán cho nhau có thể không cần đến sự có mặt của các ngân hàng thương mại. Do tiền gửi thanh toán của khách hàng và doanh nghiệp là một nguồn vốn lớn và chi phí thấp đối với các ngân hàng thương mại nên việc người sử dụng không gửi tiền vào ngân hàng thương mại để dùng cho các giao dịch thanh toán sẽ làm thiệt hại lớn cho các ngân hàng thương mại.

Cho đến nay vẫn chưa có giải pháp nào để khắc phục trở ngại này, trừ khi ngân hàng trung ương muốn thấy hệ thống ngân hàng thương mại bị suy yếu, bất ổn khi CBDC được phát hành và phổ cập nhanh chóng, rộng rãi và cấp tập.

Ngoài ba trở ngại trên, việc phát hành và sử dụng CBDC tất nhiên sẽ còn phải đối mặt với nhiều trở ngại khác mà báo chí đã phân tích. Do sự bất cập, thiếu vắng các giải pháp hiện thời nên quá trình nghiên cứu, tạo dựng và phát hành CBDC ở nhiều nước sẽ cần nhiều thời gian. Nhiều nước sẽ phải nhìn nhau, chờ nhau và học hỏi kinh nghiệm của nước đi trước để biết nên làm thế nào cho đúng. Mỹ là một trong những điển hình cho thái độ “chờ xem” này khi mà Chủ tịch Fed Powel nói rằng điều quan trọng là (làm) đúng chứ không phải là (trở thành người) đầu tiên, mặc dù Mỹ cũng đang có dự án xây dựng và thử nghiệm một đồng đô la số của mình.

Đối với Việt Nam, trước các khiếm khuyết và trở ngại của tiền CBDC và trong khi chưa có những giải pháp hữu hiệu để khắc phục, điều này không có nghĩa là Việt Nam nên đứng ngoài cuộc chơi, tự tách mình khỏi xu hướng chung của thế giới trong việc phát hành và phổ biến CBDC, đặc biệt khi xét đến các lợi ích mà CBDC mang lại. Nói cách khác, trước khả năng tiền số CBDC phát triển nhanh chóng trên thế giới, sẽ là bất cập nếu Việt Nam tiếp tục đánh đồng mọi loại tiền số và tiếp tục không chấp nhận tiền số (làm phương tiện thanh toán) như hiện tại, ít nhất là để phòng trường hợp Ngân hàng Nhà nước phát hành tiền đồng điện tử.  

Trong giai đoạn tiền số CBDC vẫn còn “tranh tối tranh sáng” như hiện nay, điều tối thiểu Việt Nam cần làm là phải chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với tình huống trong đó việc phát hành và phổ cập CBDC đột ngột trở nên nhanh chóng và phổ biến trên thế giới. Ở tư thế chuẩn bị đầy đủ và sẵn sàng, Việt Nam sẽ biết mình phải làm gì ngay cả khi vẫn không thấy tiền số là điều đáng quan tâm hay quyết định không phát hành tiền số của riêng mình.  

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).