Tuesday, 16 February 2021

Tại sao Việt Nam không thể “phóng tay” nới lỏng tiền tệ? (Bài đăng trên CafeF, 16/2/2021, bản gốc)

https://cafef.vn/tai-sao-viet-nam-khong-the-phong-tay-noi-long-tien-te-20210216140352983.chn

Không nằm ngoài xu thế chung trên thế giới, ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đã chủ động và tích cực nới lỏng chính sách tiền tệ như được thể hiện qua ba đợt cắt giảm lãi suất điều hành trong năm trước nhằm đối phó với các tác động của đại dịch Covid-19.

Tuy nhiên, điều khác biệt giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, nhất là các nước phương Tây, là ở mức độ nới lỏng. Trong các đợt hạ lãi suất ở Việt Nam, NHNN thường chỉ cắt giảm 0,5 điểm phần trăm. Và hiện tại thì các mức lãi suất điều hành của Việt Nam vẫn ở mức khá cao so với thế giới, chênh lệch ít nhất tới 3-4 điểm phần trăm/năm.

Trong khi đó, ở phương Tây, không chỉ cắt giảm lãi suất điều hành về sát 0, ngân hàng trung ương của nhiều nước còn đã và đang tiến hành thêm biện pháp nới lỏng định lượng – mua trái phiếu của Chính phủ và doanh nghiệp – để cấp tập tung thêm tiền ra nền kinh tế nhằm chặn đà rơi của tăng trưởng và cứu vãn việc làm.

Trước thực tế này, nhiều người thấy khó hiểu tại sao Việt Nam lại có vẻ thận trọng trong việc nới lỏng chính sách tiền tệ như vậy, và cũng đã có không ít người kiến nghị NHNN nới lỏng tiền tệ (hạ lãi suất) hơn nữa, thậm chí cũng nên nới lỏng định lượng như các nước khác.

Để lý giải nguyên nhân của sự thận trọng nói trên, ta cần biết những khác biệt cơ bản trong bối cảnh kinh tế giữa Việt Nam và các nước khác, nhất là các nước phát triển phương Tây.

Khác biệt trước tiên là khoảng cách chênh lệch giữa tăng trưởng GDP tiềm năng và tăng trưởng GDP thực tế. Do đại dịch, tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước đã bị âm trầm trọng trong các quý của năm qua, làm doãng rộng chênh lệch giữa tăng trưởng tiềm năng và tăng trưởng thực tế. Theo lý thuyết, nếu chênh lệch này càng doãng rộng thì lạm phát (như là hậu quả của việc tăng cung tiền) càng khó xảy ra hơn.

Tăng trưởng âm cũng có nghĩa là nền kinh tế sẽ có nhiều rủi ro hơn trong việc phục hồi tăng trưởng vì năng lực sản xuất đã bị phá hủy một phần bởi suy thoái, nhiều doanh nghiệp sẽ không thể mở cửa trở lại, nhiều người lao động sẽ không (thể) làm việc trở lại, và những nguồn lực bị bỏ phí, không sử dụng trong suy thoái, như thiết bị, kỹ năng người lao động sẽ trở nên lạc hậu, “quá đát” v.v... Đại dịch cũng buộc nhiều người phải ở nhà, hoặc bị thất nghiệp, bị giảm thu nhập. Trong khi đó, tồn kho tại các doanh nghiệp tăng lên vì người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu.

Trong bối cảnh suy thoái này,  dù các nước tăng mạnh cung tiền thì cũng chỉ có một phần trong số này được cho vay hoặc chi tiêu. Và cho dù vậy thì việc cho vay/chi tiêu này cũng không thể đẩy tổng cầu tăng vọt một cách tương đối so với tổng cung để có thể dẫn đến lạm phát như theo lý thuyết. Thay vào đó, một phần lớn số tiền này mới tung ra này sẽ nằm tắc tại ngân hàng, trên bảng cân đối tài sản của chúng hoặc trong tài khoản tiết kiệm của người tiêu dùng (nếu có/còn).                                                    

Ngược lại, tuy cũng bị tác động từ đại dịch nhưng tác động này ở Việt Nam nhìn chung là nhỏ hơn ở các nước khác nên Việt Nam vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng dương, và thuộc hạng cao trên thế giới. Do đó, chênh lệch giữa tăng trưởng tiềm năng và thực tế tuy có doãng rộng hơn trước đây nhưng chắc chắn ở mức nhỏ hơn nhiều so với hầu hết các nước khác trên thế giới. Tương tự như vậy là tổng cầu tại Việt Nam không những không bị suy giảm mạnh như ở nhiều nước mà còn tăng lên đáng kể (do tăng trưởng GDP dương).

Như vậy, nếu Việt Nam tăng mạnh và cấp tập cung tiền với mức độ như ở nhiều nước thì áp lực lạm phát sẽ tăng vọt. Trên thực tế, như đã thấy, dù nới lỏng tiền tệ ở Việt Nam chỉ có mức độ thận trọng như vậy nhưng lạm phát của Việt Nam đã và vẫn đứng ở mức khá cao so với thế giới (trên 3%/năm).

Khác biệt đáng kể thứ hai là về kỳ vọng lạm phát – là một yếu tố cũng có liên quan đến thực trạng tăng trưởng kinh tế. Lạm phát sẽ khó mà nổ ra nếu người tiêu dùng không tin nó sẽ nổ ra. Suy thoái càng trầm trọng thì lòng tin tiêu dùng càng suy giảm. Đồng hành với lòng tin tiêu dùng suy giảm là kỳ vọng lạm phát cũng bị suy yếu đi do triển vọng phục hồi kinh tế mù mịt hơn.

Lạm phát của Mỹ đã nhích lên hồi tháng 1 năm nay nhưng nó vẫn còn thấp xa so với mức mà Fed kỳ vọng. Ở Trung Quốc, lạm phát bất ngờ giảm 0,3% trong tháng 1 so với cùng kỳ năm trước. Còn các quan chức Nhật thì nhiều lúc cho thấy họ như đã đầu hàng trong việc đạt được mục tiêu đẩy lạm phát ở nước này lên 2%/năm. Ngay ở trong khu vực Đông Nam Á, nơi mà tăng trưởng cũng như lạm phát thường cao hơn các nước đã phát triển, giá cả thậm chí cũng sụt giảm ở một số nước.           

Trong khi đó, như đã thấy, giá cả ở Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trong năm qua và bước vào năm nay, dù ở mức bị kiềm chế hơn. Điều này cho thấy kỳ vọng lạm phát là một điều rất thật ở Việt Nam và nó rất nhạy cảm với đường hướng của chính sách tiền tệ của NHNN – là một điều đã được kiểm chứng chắc chắn trong quá khứ.

Khác biệt thứ ba là về tốc độ tăng lương. Ở các nước phát triển, tiền lương của nhiều công nhân trong nhiều ngành không tăng tương ứng với lạm phát trong nhiều năm qua. Đây là kết quả của toàn cầu hóa và outsourcing việc sản xuất sang các nước đang phát triển có tiền lương rẻ hơn. Do thu nhập của một bộ phận người làm công ăn lương không tăng tương ứng nên tổng cầu cũng sẽ không tăng tương ứng với nới lỏng tiền tệ của ngân hàng trung ương.

Ngược lại, ở Việt Nam, tiền lương nhìn chung được gắn chặt hơn với lạm phát, như được minh họa qua việc điều chỉnh thường xuyên lương tối thiểu. Do đó, áp lực lên lạm phát từ phía tổng cầu thường có xu hướng lớn hơn ở Việt Nam so với các nước khác.  

Khác biệt thứ tư là ở khối nợ của doanh nghiệp. Tuy mang tiếng đã được hưởng lợi lớn từ các đợt nới lỏn tiền tệ cũng như nới lỏng định lượng kéo dài trong nhiều năm qua nhưng, ví dụ, như ở Mỹ, tổng nợ của doanh nghiệp Mỹ mới chỉ tương đương với gần 75% GDP năm 2019, theo số liệu của IMF. Số liệu tương ứng từ IMF cho Việt Nam không tồn tại, nhưng số liệu từ Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam cho thấy tỷ lệ nợ phải trả so với GDP của doanh nghiệp Việt Nam là lớn hơn nhiều (ví dụ, năm 2017 tỷ lệ này của Việt Nam là 472%, tăng từ mức 436% năm 2016).                                                                     

Nếu các số liệu so sánh trên là tương thích với nhau ở mức độ nhất định nào đó thì có thể thấy các doanh nghiệp tại Việt Nam đang ngập trong nợ nần nhiều hơn nhiều so với các nước phát triển. Theo lý thuyết, năng suất của một đồng vốn tạo ra GDP hoặc thu nhập sẽ giảm đi nếu lượng vốn tăng lên. Và do năng suất vốn giảm nên đồng hành với sự tăng lên của GDP do tăng cung tiền sẽ là sự tăng lên của áp lực lạm phát. Điều này có nghĩa là để đạt cùng một hiệu ứng kích thích tăng trưởng như nhau thông qua cung cấp đủ vốn cho doanh nghiệp thì chính sách tiền tệ ở Việt Nam phải được nới lỏng ở mức lớn hơn nhiều so với phương Tây, trong khi lại gây ra áp lực lạm phát lớn hơn.

Tóm lại, do những khác biệt lớn về cấu trúc và hiện trạng kinh tế nên Việt Nam không thể “đua trend” với các nước phát triển trong việc nới lỏng tiền tệ, kích thích tăng trưởng nếu không muốn phải đối mặt với rủi ro lạm phát tăng vọt giai đoạn hậu kích thích.                  


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).