Tờ Straitstimes của
Singapore vừa có bài viết tập hợp một số ý kiến đánh giá của các chuyên gia nước
ngoài về các cơ hội và thách thức cho Việt Nam trước thềm năm mới.
Theo bài viết, dịch
bệnh tuy đã ảnh hưởng mạnh đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2020 nhưng
đồng thời dịch bệnh cũng đã mở ra những cơ hội mới liên quan đến sự phong tỏa
và xu hướng làm việc tại nhà, từ xa trên thế giới để Việt Nam bứt phá nếu kịp thời
nắm bắt các cơ hội này trên nền tảng kiềm chế tương đối thành công đại dịch.
Bài viết nhấn mạnh
Việt Nam cũng đã nhận thức rõ những cơ hội này nên đã đặt ra những mục tiêu
tham vọng cho nền kinh tế, như tăng gấp đôi GDP/đầu người vào năm 2030 so với năm
2020 (Ghi chú: nguyên văn trong bài viết là tăng gấp đôi GDP vào năm 2025) và đạt
được vị thế là nước thu nhập cao vào năm 2045 từ vị thế hiện tại là nước thu nhập
trung bình thấp.
Bên cạnh những mục
tiêu kinh tế tổng quát nói trên, Việt Nam cũng đề ra những mục tiêu kinh tế cụ
thể hơn như tăng cường cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và tăng tỷ trọng doanh
nghiệp tư nhân trong nền kinh tế từ 42% lên 50%. Một mục tiêu khác là tiến lên
các bậc cao hơn trong chuỗi giá trị bằng cách thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài có chất lượng hơn.
Mặt khác, bài viết
cũng chỉ ra những thách thức trong việc đạt được những mục tiêu tham vọng này,
ngoài thách thức đến từ đại dịch vẫn chưa đến hồi kết vẫn đang gây ra những tác
động tiêu cực cho nền kinh tế.
Trước hết, về mặt
kỹ thuật, bài viết chỉ ra rằng để tăng gấp đôi GDP/đầu người vào năm 2030 thì
kinh tế Việt Nam cần phải đạt được tốc độ tăng trưởng 9-10%/năm – là tốc độ mà
theo bài viết là quá cao đối với Việt Nam.
Ngoài ra, theo
bài viết, Việt Nam phải đối mặt với sự thiếu hụt lao động kỹ năng cao, cơ sở hạ
tầng cần cải thiện và các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả. Hơn nữa, các vấn
đề địa chính trị như tâm lý bảo hộ mậu dịch đã quay trở lại ở nhiều nước gây trở
ngại cho xuất khẩu của Việt Nam, cũng như thương chiến Mỹ-Trung cũng sẽ có những
ảnh hưởng tiêu cực.
Trên thực tế, những
thách thức trên không phải là một phát hiện mới trong con mắt của người nước
ngoài đối với Việt Nam. Bởi bài viết cũng trích dẫn lời của lãnh đạo nước ta
khi thẳng thắn chỉ ra những thách thức, trong đó có sự không hiệu quả của các
doanh nghiệp nhà nước và sự tăng trưởng chưa bền vững của khu vực tư nhân và đầu
tư nước ngoài.
Tuy vậy, bài viết
trở nên có ý nghĩa hơn khi trích dẫn chuyên gia nước ngoài hoài nghi liệu Việt
Nam có sẵn sàng tiếp tục chương trình cổ phần hóa hay chưa trước khi dịch bệnh
được khống chế để không còn ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam nữa.
Vì chương trình cổ
phần hóa là một phần của kế hoạch tăng cường vai trò của khu vực tư nhân nên bài
viết dẫn ý kiến của các nhà phân tích cho rằng Việt Nam cần phải thúc đẩy cổ phần
hóa đúng tiến độ. Các nhà phân tích cũng cho rằng mục tiêu tăng tỷ trọng của
khu vực tư nhân lên trên 50% có khả thi hay không còn phụ thuộc vào các giải
pháp được triển khai để thu hút đầu tư.
Đối với mục tiêu
tiến lên bậc cao hơn trong chuỗi giá trị nhờ
thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng
cao hơn, thách thức chủ yếu là sự thiếu hụt lao động có trình độ cao. Bài viết
dẫn ý kiến chuyên gia cho rằng Việt Nam cần không chỉ tăng số lượng sinh viên tốt
nghiệp đại học mà phải mở rộng phạm vi sử dụng số người tốt nghiệp này vì hiện
tại phần lớn số người tốt nghiệp đại học làm việc trong khu vực công.
Trong khi tính
chính xác của ý kiến này (cụ thể về tỷ lệ người tốt nghiệp đại học làm trong
khu vực công) vẫn cần phải được kiểm chứng nhưng chúng ta có thể thấy quan ngại
này cũng có phần xác đáng nếu xét đến tâm lý vẫn còn ưa chuộng khu vực công của
nhiều người tốt nghiệp đại học. Điều này đã và tiếp tục tạo ra trở ngại cho sự phát
triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam nếu không được khắc phục một cách
căn bản.
Đối với thách thức
từ sự bất cập của cơ sở hạ tầng, bài viết minh họa sự bất cập này bằng số liệu
của Ngân hàng Thế giới mà theo đó tỷ lệ đầu tư vốn vào cơ sở hạ tầng trên GDP của
Việt Nam thuộc hàng thấp nhất trong khu vực ASEAN. Bài viết nhận định điều này ảnh
hưởng đến khả năng cung cấp một cơ sở hạ tầng hiện đại cần thiết cho sự phát
triển ở giai đoạn tiếp theo.
Với những thách thức và trở ngại nêu trên, bài viết cho rằng mặc dù các chuyên gia nước ngoài tin tưởng Việt Nam vẫn đang trong quỹ đạo tăng trưởng nhưng tốc độ tăng trưởng là điều bất trắc. Tốc độ tăng trưởng này cũng như việc đạt được các mục tiêu kinh tế tham vọng khác sẽ phụ thuộc vào việc chúng ta sẽ xử lý các thách thức và trở ngại này hiệu quả như thế nào trong thời gian tới, bài viết kết luận.
No comments:
Post a Comment