Wednesday 10 February 2021

Nhận dạng những xu hướng hậu Covid (Bài hình như được đăng trên Thời đại số Tết)

Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến cuộc sống và làm việc của hầu như mọi tổ chức và cá nhân trên thế giới. Điều này đã buộc những ngành nghề cũ phải đổi thay và những ngành nghề mới ra đời. Những cách thức sống và làm việc mới đang trỗi dậy khi nỗi sợ hãi dần tan. Dưới đây là một số xu hướng sẽ định hình và định nghĩa lại đời sống, tổ chức và xã hội của tất cả chúng ta.

Tăng tốc chuyển đổi số

Đại dịch đã cho thấy không có gì là bền vững, bất biến, và chỉ có ai năng động, có tính thích nghi cao thì mới tồn tại và phát triển được. Nó càng buộc các công ty phải có những bước đi mạnh mẽ hơn nữa để áp dụng công nghệ tiên tiến và hiện đại hóa cấu trúc tổ chức và văn hóa doanh nghiệp, hệ thống đo lường và kiến trúc hoạt động. Cho dù công ty hiện đang đi trước đối thủ, họ cũng phải tiếp tục sẵn sàng để thay đổi, đối mặt với rủi ro lường trước và sẵn sàng để thất bại chóng vánh, nếu không thì khả năng cao là việc kinh doanh của họ sẽ bị gián đoạn. Vì vậy, tăng tốc trên con đường chuyển đổi số sẽ là ưu tiên hàng đầu cho nhiều công ty muốn đảm bảo sự kinh doanh thông suốt, cải thiện năng suất và tung ra những mô hình kinh doanh mới để duy trì tính cạnh tranh.

Địa phương hóa

Toàn cầu hóa là xu hướng chiến lược phổ biến trong mấy thập kỷ qua. Nhưng biến đổi khí hậu và sau đó là Covid-19 vốn gây ra sự gián đoạn hơn nữa chuỗi cung ứng đã làm tăng vọt nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản phẩm địa phương cũng như làm suy yếu tổng cầu. Sản phẩm và dịch vụ cùng với chuỗi cung ứng địa phương đã trở nên quan trọng hơn với không chỉ người tiêu dùng mà còn cả với các công ty muốn tăng sức đề kháng cho các cuộc khủng hoảng trong tương lai. Điều này có ảnh hưởng đến và là hàm ý cho các vấn đề liên quan đến chuỗi cung ứng cũng như kỳ vọng khách hàng và việc đáp ứng kỳ vọng đó. Thế giới sẽ ngày càng cá nhân hóa. Khách hàng sẽ ngày càng đòi hỏi hơn, muốn sự đa dạng hóa sản phẩm và nhiều kênh phân phối hơn để lựa chọn, thời gian giao hàng nhanh hơn và minh bạch hơn.

Phân mảnh chuỗi cung ứng

Các chuỗi cung ứng sẽ phân mảnh hơn nữa với các nền tảng công nghệ nối kết các bộ phận của chuỗi cung ứng với nhau, được tiếp sức bởi việc ứng dụng và ngày càng phổ biến của internet 5G. Chuỗi cung ứng nhiều tầng này sẽ mở ra nhiều cơ hội tiếp xúc với khách hàng, quản lý tồn kho, tối ưu hóa sản xuất và phân phối, quản lý hậu cần và quản lý dòng tiền/vốn.

Cuộc sống không cần sự hiện diện vật lý

Đại dịch dẫn đến các đợt phong tỏa và buộc nhiều người phải ở nhà. Mọi người dần trở nên thích nghi và làm quen tốt với xu hướng dùng sự hiện diện điện tử thay thế cho hiện diện vật lý ở trong nhiều lĩnh vực như làm việc, giáo dục và giải trí. Xu hướng không yêu cầu phải hiện diện vật lý sẽ tác động đến hành vi người tiêu dùng và kỳ vọng khách hàng đối với nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ. Xu hướng này sẽ ngày càng trở nên rõ nét hơn trong tương lai, cùng với những lựa chọn làm việc từ xa, nó sẽ thay đổi vĩnh viễn và mạnh mẽ cung cách và thói quen hiện nay và tạo ra những lĩnh vực kinh tế mới. Một trong những ví dụ điển hình là ngành khám chữa bệnh từ xa, vốn trước đại dịch chỉ là một mảng nhỏ trong ngành chăm sóc sức khỏe. Đại dịch đã làm cho nhiều người tiêu dùng quan tâm hơn đến và bệnh nhân bị hấp dẫn hơn bởi dịch vụ tư vấn, khám chữa bệnh từ xa, tạo điều kiện để các trung tâm y tế thiết lập và phát triển dịch vụ này trong tương lai. Tương tự là các ngành, lĩnh vực mới dựa vào trải nghiệm số hóa như triển lãm, hòa nhạc hay thậm chí nếm rượu vang online.

Định vị lại phân khúc khách hàng

Thông thường nhiều công ty định vị phân khúc khách hàng dựa vào các tiêu chí nhân khẩu học như độ tuổi, thành phố, và thu nhập. Nhưng điều nhiều khi có tính chi phối lại là trạng thái tâm lý của người tiêu dùng. Đại dịch làm cho nhiều người giảm thu nhập nên những người này hoặc cắt giảm tối đa chi tiêu, hoặc chỉ (muốn) mua những thứ gì “ngon, bổ, rẻ”. Việc giảm giá khuyến mại và/hoặc tăng cảm giác “đáng đồng tiền bát gạo” hướng vào đối tượng này sẽ giúp công ty duy trì, thậm chí tăng doanh thu, lợi nhuận. Ngược lại, đại dịch còn làm lợi cho không ít người nên họ sẵn sàng chi tiêu hơn nữa mà không bận tâm nhiều về giá. Do đó, chiến lược bán hàng thiết kế riêng cho hai phân khúc khách hàng khác nhau này sẽ giúp duy trì, thậm chí làm tăng sức mạnh làm giá của công ty. Ngoài ra, đại dịch làm thay đổi hành vi và thuộc tính người tiêu dùng còn tạo ra những phân khúc khách hàng mới sẵn sàng chi tiền cho một (số) sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó nên chiến lược bán hàng cũng cần nắm bắt kịp thời những xu hướng này.

Tăng cường thương mại điện tử

Không mấy ai phản đối rằng đại dịch là một cú hích quyết định cho thương mại điện tử. Trước xu hướng ngày càng có nhiều người tiêu dùng chuyển sang hoặc tăng cường mua sắm online, các doanh nghiệp đã và đang đẩy mạnh đầu tư năng lực thương mại điện tử để không tụt hậu với đối thủ. Đồng thời, sẽ ngày càng nhiều người lựa chọn đặt hàng online và đi nhận hàng tại điểm chạm (touchpoint) vì đối tượng khách hàng này muốn có sự kết hợp giữa nhu cầu có hàng sớm nhưng chỉ cần nỗ lực cá nhân tối thiểu trong nhận hàng, thường là những người không muốn mất thời gian đợi hàng được giao tại nhà nhưng cũng không muốn trải nghiệm bất tiện đi mua hàng tại quầy.

Thương mại điện tử còn được trợ giúp bởi nhu cầu bùng nổ các dịch vụ stream trong đại dịch như xem video trên nền tảng của Netflix. Nhiều doanh nghiệp đã nắm bắt xu hướng này, sử dụng công nghệ có sẵn để số hóa tương tác của họ với khách hàng gồm giới thiệu sản phẩm và hỏi đáp trên các phương tiện truyền thông, với chi phí tối thiểu so với các kênh tương tác truyền thống.

Những doanh nghiệp không có kênh bán hàng online nào sẽ là doanh nghiệp bị ảnh hưởng nhất hiện tại và trong tương lai. Ngược lại, những doanh nghiệp nào vốn dĩ dựa vào bán hàng offline thì càng có thêm động cơ để đẩy mạnh số hóa các hoạt động thương mại của mình.

Thanh toán không tiếp xúc

Đại dịch đã làm tăng vọt nhu cầu thanh toán không tiếp xúc, ngay cả với những người bảo thủ, ưa thích các hình thức thanh toán truyền thống trước yêu cầu đảm bảo vệ sinh an toàn trong phòng chống dịch. Thực tế này dẫn đến khả năng lớn là sẽ ngày càng có nhiều người chuyển sang và trở nên quen dùng các công cụ thanh toán không tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Các doanh nghiệp cần phải nắm bắt sự thay đổi và xu hướng này để kịp thời chuẩn bị và thích nghi với nhu cầu này của đại bộ phận khách hàng.

Tăng nhu cầu tái đào tạo và nâng cấp kỹ năng lao động

Đại dịch đã làm gián đoạn, tác động nặng nề đến nhiều ngành nghề như hàng không, bán lẻ, khách sạn, y tế, giáo dục xây dựng và công nghệ. Doanh nghiệp trong các ngành này cần nhanh chóng thay đổi mô hình kinh doanh và do đó cần kỹ năng mới/nâng cao cho nhân viên. Hệ thống đào tạo và giáo dục (trong và ngoài doanh nghiệp) cần phải được cải tạo  mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu tái đào tạo và nâng cấp kỹ năng cho lực lượng lao động bị dôi dư. Việc sử dụng công nghệ lấy con người làm trung tâm trở nên quan trọng để đảm bảo sự giao tiếp và truyền tải kiến thức thông suốt có hiệu quả.

Nhu cầu bất động sản thương mại thay đổi

Với sự thay đổi về môi trường kinh doanh, thương mại điện tử và làm việc từ xa..., chi phí thuê văn phòng thương mại sẽ bị áp lực giảm khi nhu cầu suy giảm. Nhiều hình thức sử dụng văn phòng thương mại mới như chia sẻ nơi làm việc, không gian làm việc thuê chung... sẽ ngày càng trở nên thịnh hành hơn là việc thuê/mua các trụ sở/văn phòng làm việc phức hợp, tập trung, cố định. Với chi phí bất động sản dễ thở hơn, nhiều ngành nghề sẽ được tái sinh hoặc quy hoạch lại về mặt không gian phù hợp với sự biến đổi của môi trường xung quanh.

Những xu hướng và thay đổi nói trên đã có tác động rõ ràng đến các chuẩn mực xã hội và hành vi của các tổ chức và cá nhân người tiêu dùng ngay cả ở Việt Nam. Hiểu đúng và phản ứng với những xu hướng này sẽ là động lực quan trọng cho thành công của doanh nghiệp và cả nền kinh tế của chúng ta trong tương lai. Đặc biệt, những nhà lãnh đạo công nghệ và đổi mới, những người phụ trách marketing và bán hàng đang có một động lực hiếm có trước mặt mình mà có thể sử dụng để thực thi những giải pháp cần thiết để xây dựng một nền tảng vững mạnh hơn cho doanh nghiệp và nền kinh tế trong tương lai.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).