Friday, 26 February 2021

Đô la thời chính quyền Tổng thống Biden sẽ đi về đâu? (Bài đăng trên CafeF, 26/2/2021)

https://cafef.vn/do-la-thoi-chinh-quyen-tong-thong-biden-se-di-ve-dau-20210226100016589.chn

Trong suốt nhiều năm liền qua các đời tổng thống hoặc là đảng Cộng hòa, hoặc Dân chủ, chính sách theo đuổi đồng USD mạnh luôn là chính sách nhất quán bởi quan niệm rằng USD mạnh là có lợi cho Mỹ. Điều này luôn được khẳng định bởi các bộ trưởng tài chính trong các buổi điều trần khi được hỏi về định hướng chính sách USD.             

Đồng USD mạnh mang đến hai cái lợi cho Mỹ. Thứ nhất, để có được USD mạnh thì Mỹ cần phải thực thi những chính sách kinh tế cẩn trọng. Thứ hai, với USD mạnh, Mỹ cho thế giới thấy họ tôn trọng những chuẩn mực toàn cầu về quản lý tiền tệ và, đặc biệt, không tìm cách làm cho đồng tiền của mình yếu đi. Điều này cũng củng cố vị thế lãnh đạo của Mỹ trong hệ thống toàn cầu.

Hai lợi thế trên cho phép Mỹ thảo luận (và gây áp lực) với các nước khác về các vấn đề tiền tệ của họ như Mỹ đã từng làm dưới thời Tổng thống Obama với Trung Quốc khi USD mạnh lên trong các năm 2015-2016. Dường như các thị trường tiền tệ toàn cầu sẽ trở nên trật tự và minh bạch hơn so với nếu Mỹ theo đuổi một sách lược tiền tệ khác.

Tuy nhiên, đến thời Tổng thống Trump thì chính sách tiền tệ của Mỹ trở nên lộn xộn. Cựu Bộ trưởng Tài chính Mnuchin đôi lúc đưa ra những tuyên bố mâu thuẫn về USD, lúc thì muốn USD yếu đi, lúc thì ngược lại, thậm chí ngay trong một buổi chiều.

Sang đến thời của Tổng thống Biden thì tình hình có vẻ... chưa rõ!

Một mặt, Bộ trưởng Tài chính Yellen đã tuyên bố trong buổi điều trần tại Nghị viện rằng sẽ để cho thị trường quyết định tỷ giá của USD với các ngoại tệ khác và rằng “Mỹ sẽ không tìm cách làm yếu đồng tiền để đạt lợi thế cạnh tranh”. Bà cũng tuyên bố rằng Mỹ sẽ phản đối nỗ lực làm yếu bản tệ một cách không công bằng của các nước khác, và rằng “ý đồ nhằm vào tỷ giá để đạt lợi thế thương mại là không thể chấp nhận được”. Những tuyên bố này rõ ràng có nghĩa là Mỹ không ủng hộ, không mong muốn có một đồng USD suy yếu so với các ngoại tệ khác.

Nhưng mặt khác, trong tuyên bố trên của bà Yellen lại không có một lời nào cho thấy Mỹ muốn một đồng USD mạnh như trong tuyên bố của các người tiền nhiệm.       

Chính quyền mới của Tổng thống Biden có những ưu tiên chính sách và cản trở chính trị khác liên quan đến USD. Với chủ trương vực dậy ngành chế tạo của ông Biden thì chính sách theo đuổi một đồng tiền mạnh sẽ gây trở ngại cho chủ trương này. Do đó, có thể hiểu tại sao bà Yellen lại bỏ qua, không nói gì về chính sách đồng USD mạnh trong các chính quyền trước.

Tuy vậy, chủ trương mới của Bộ Tài chính (để thị trường quyết định tỷ giá) vẫn mang đến cho Mỹ hai lợi ích nói trên. Và điều quan trọng là chủ trương này tiếp tục gây áp lực lên Trung Quốc. Ít nhất trong nhiệm kỳ của Biden, Mỹ sẽ không để yên cho Trung Quốc dùng tỷ giá để thúc đẩy xuất khẩu sang Mỹ. Hơn nữa, sự phục hồi mạnh của Trung Quốc trong năm qua đã làm đồng Yuan của nước này lên giá mạnh so với USD. Với thái độ chống đối thao túng tiền tệ của bà Yellen chắc chắn Trung Quốc sẽ gặp áp lực lớn nếu muốn chấm dứt hoặc đảo ngược quá trình lên giá này.

Sự bỏ ngỏ một phần về chính sách đối với USD của Bộ Tài chính Mỹ dẫn đến một bất trắc, quan ngại khác. Sự suy yếu liên tục của USD trong thời gian qua trong bối cảnh bà Yellen khẳng định để thị trường quyết định tỷ giá trong khi không đả động gì đến chính sách theo đuổi USD mạnh như trước đây đang tạo ra một ấn tượng rằng Mỹ ủng hộ, thậm chí đang theo đuổi chính sách làm yếu USD. Điều này đến lượt nó lại càng đẩy mạnh quá trình suy yếu của USD và sự suy yếu của USD cứ thế tiếp diễn mạnh lên.

Tóm lại, điều có thể chắc chắn được tại thời điểm này liên quan đến chính sách của Mỹ với USD là Mỹ không muốn có một đồng USD suy yếu. Nhưng chừng nào Mỹ không khẳng định lại chính sách muốn có USD mạnh như trước đây thì kết cục cuối cùng lại rất có thể là Mỹ sẽ phải chấp nhận USD suy yếu. Vì vậy, chúng ta buộc phải chờ xem điều gì sẽ xảy ra mà không thể đoán định được đường hướng của USD trong mấy năm tới.                                                                                  

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).