Friday, 5 February 2021

Rất nhiều doanh nghiệp FDI báo lỗ: Không thể nói khơi khơi mà phải phân tích (Bài đăn trên TBKTSG, 5/2/2021, bản gốc, tiêu đề do báo đặt lại)

https://www.thesaigontimes.vn/313436/rat-nhieu-doanh-nghiep-fdi-bao-lo-khong-the-noi-khoi-khoi-ma-phai-phan-tich.html

Nhiều năm qua, có một “nghịch lý” là nhiều doanh nghiệp FDI ở Việt Nam triền miên báo lỗ mặc dù không ngừng tăng vốn, mở rộng sản xuất, kinh doanh và doanh thu tăng qua các năm. Nghịch lý này thường được thể hiện qua tỷ lệ rất cao (thường trên 50%; cụ thể như năm 2019 là 55%) doanh nghiệp FDI báo lỗ, dù tổng doanh thu của số doanh nghiệp này vẫn tăng, theo báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI năm 2019 của Bộ Tài chính.

Ngoài ra, cũng trong báo cáo trên, Bộ Tài chính chỉ đích danh một số doanh nghiệp FDI lớn tuy có doanh thu tăng nhưng đóng góp cho ngân sách lại giảm đi, “chưa tương xứng với những ưu đãi (đất đai, thuế...) dành cho những doanh nghiệp lớn này”.

Những tin tức như vậy thường ngay lập tức làm nóng dư luận, dấy lên nghi ngờ rằng chuyện đóng góp cho ngân sách giảm và khai báo lỗ này là kết quả của hành vi chuyển giá gian lận để trốn thuế bởi các doanh nghiệp FDI khai lỗ. Song song đó sẽ là những kiến nghị của giới chuyên gia rằng Nhà nước cần tiến hành thanh tra, kiểm tra để phát hiện và xử phạt các hành vi chuyển giá bất hợp pháp, nếu có, trong số các doanh nghiệp FDI báo lỗ này.

Điều đáng nói là tuy nghi ngờ như vậy nhưng trên thực tế đã không có nhiều vụ việc chuyển giá gian lận được phát giác và kết luận qua công tác tranh tra, giám sát các doanh nghiệp FDI trong diện nghi ngờ của các cơ quan chức năng Việt Nam trong nhiều năm qua.

Một mặt, thực tế “đáng tiếc” này hoàn toàn không có nghĩa là có thể kết luận rằng không có nhiều doanh nghiệp FDI đã có các hành vi chuyển giá gian lận và trốn được thuế ở Việt Nam. Nhưng mặt khác, nó cũng cho thấy, thậm chí sẽ là phản tác dụng nếu cứ nói khơi khơi, mang tính quy kết như là bản chất, mà “không vạch mặt chỉ tên” được hàng loạt doanh nghiệp FDI đã trốn thuế nhờ chuyển giá gian lận để minh họa. Chí ít thì sự quy kết vô căn cứ này sẽ làm xói mòn lòng tin vào môi trường đầu tư ở Việt Nam, cũng như gia tăng sự bài trừ, chống đối của một bộ phận công luận vào dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam như đã và đang được chứng kiến.

Chỉ cần nêu một ví dụ là trong khi chỉ có một số ít các doanh nghiệp FDI bị kết luận là có hành vi gian lận chuyển giá thì có hàng trăm doanh nghiệp trong nước chỉ riêng ở Hà Nội đã bị kết luận như vậy (1) là đủ thấy rằng đang tồn tại một thành kiến lớn về doanh nghiệp FDI, đại loại như trốn thuế và gian lận chuyển giá là thuộc tính riêng và xu hướng của doanh nghiệp FDI.

Quay lại với báo cáo trên của Bộ Tài chính, để việc công bố những con số về doanh thu, lỗ lãi của doanh nghiệp FDI trở nên có ý nghĩa hơn, có lẽ Bộ Tài chính cần công bố song song, và/hoặc so sánh tình hình hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong nước. Nếu tỷ lệ thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân trong nước nhỏ hơn nhiều và/hoặc có xu hướng giảm thì chuyện thua lỗ của doanh nghiệp FDI mới là điều đáng nói, và ngược lại.

Hơn nữa, việc Bộ Tài chính kết luận rằng đóng góp cho ngân sách của một số doanh nghiệp FDI lớn, cụ thể như Formosa Hà Tĩnh, “chưa tương xứng với những ưu đãi mà các doanh nghiệp này được hưởng” là chưa hoàn toàn thỏa đáng. Bởi, các doanh nghiệp này rất có thể sẽ lập luận rằng đóng góp của họ cho nền kinh tế Việt Nam không chỉ được nhìn qua con số nộp ngân sách mà còn dưới các hình thức khác như tạo công ăn việc làm cho người địa phương, tạo ra các liên kết với và đem đến doanh thu cho các doanh nghiệp nội địa...

Thực tế là ngay trong báo cáo thẩm định và phê duyệt đầu tư của các cơ quan chức năng bao giờ cũng đề cập đến các hiệu quả tích cực này của doanh nghiệp FDI, mà không hiếm khi họ dùng chính những hiệu quả này để vận động chấp thuận dự án trước sự phản đối của dư luận vì những lo ngại như ô nhiễm môi trường. Nên nếu giờ mà nói rằng các doanh nghiệp lớn này không đóng góp tương xứng với những gì họ được ưu đãi thì cũng có nghĩa là đã thừa nhận sai lầm khi ủng hộ và phê duyệt dự án đầu tư của các doanh nghiệp này.

Những con số mang tính tiêu cực về doanh nghiệp FDI nêu trên còn đặt ra câu hỏi về năng lực của các cơ quan hữu quan. Cần lưu ý rằng tỷ lệ doanh nghiệp FDI báo lỗ trong nhiều năm qua vẫn đứng ở mức lớn, thậm chí tăng lên. Ví dụ, năm 2017 tỷ lệ này là 52%, cao nhất trong giai đoạn 2012-2017 với tỷ lệ tương ứng từ 44% đến 52% (2). Nếu hiện tượng doanh nghiệp FDI thua lỗ được gắn với hành vi trốn thuế, gian lận chuyển giá thì sự tăng lên của tỷ lệ doanh nghiệp FDI báo lỗ cho thấy các nỗ lực xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật trong suốt hơn thập kỷ qua không có hiệu quả và tác dụng, đồng thời cho thấy sự yếu kém trong thực thi các biện pháp phòng chống gian lận chuyển giá của các cơ quan chức năng.

Hiển nhiên rằng sự suy diễn này là không thỏa đáng vì rõ ràng là hệ thống pháp luật liên quan đã chặt chẽ, đầy đủ hơn, và năng lực thanh tra cũng như sự phối hợp quốc tế trong lĩnh vực phòng chống gian lận chuyển giá đã được cải thiện liên tục trong những năm qua. Thế nên, tỷ lệ doanh nghiệp FDI báo lỗ cao (và tăng lên) càng cần phải được phân tích một cách thỏa đáng, khoa học và có căn cứ hơn để tìm ra nguyên nhân đích thực, từ đó đề ra những giải pháp xử lý xác đáng và hữu hiệu, cũng như cách đang làm với khu vực doanh nghiệp nhà nước.

Nói cách khác, nếu muốn thực hiện thì Bộ Tài chính cần tổng kết tình hình hoạt động của khu vực doanh nghiệp FDI đặt trong bối cảnh chung của toàn bộ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để tránh gửi đi một thông điệp sai lầm mang tính phân biệt, thành kiến.

(1)    http://thanglong.chinhphu.vn/thanh-tra-chong-chuyen-gia-giai-phap-ngan-chan-tron-thue

(2)    https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/mtttc/r/m/ptitutsuk/phodonttsk_chitiet?dDocName=MOFUCM147859&dID=154127&_afrLoop=3192203822257981#%40%3F_afrLoop%3D3192203822257981%26dDocName%3DMOFUCM147859%26dID%3D154127%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dgxnrxzkpm_46


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).