Friday 11 June 2021

Tiền kỹ thuật số ngân hàng trung ương có thay thế tiền thật? (Bài đăng trên Đầu tư, 11/6/2021)

https://baodautu.vn/tien-ky-thuat-so-ngan-hang-trung-uong-co-thay-the-tien-that-d144868.html

Tiền kỹ thuật số ngân hàng trung ương (CBDC) đang được nhiều nước nghiên cứu và triển khai, và có khả năng sẽ trở nên phổ biến và thịnh hành trên thế giới trong thời gian không quá xa. Câu hỏi đặt ra là liệu đến một thời điểm nào đó CBDC có làm cho tiền pháp định/tiền thật truyền thống trở nên không còn cần thiết và biến mất không?

Một hậu quả lớn nhất của CBCD là nó sẽ làm cho sự tồn tại của hệ thống ngân hàng thương mại, vốn đóng vai trò như trung gian thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế, trở thành vô dụng. Bởi CBCD cho phép người tiêu dùng trực tiếp thanh toán qua ngân hàng trung ương, cho phép các cá nhân và nhà bán buôn bỏ tiền vào hệ thống CBCD thay vì hệ thống các ngân hàng thương mại truyền thống. Mà như vậy thì các ngân hàng thương mại sẽ mất đi sự tiếp cận một nguồn vốn giá rẻ có nguồn gốc từ tiền gửi thanh toán của cá nhân và tổ chức như truyền thống từ trước đến nay. Kết cục tiếp đến sẽ là dư nợ cho vay trong nền kinh tế sụt giảm và các hoạt động kinh tế tư nhân trở nên trầm lắng hơn nhiều, theo đó là tăng trưởng kinh tế giảm sút.

Để viễn cảnh trên không xảy ra, phương án giải quyết sẽ là hạn chế phát hành CBCD về lượng, cũng như hạn chế tiếp cận CBCD – dành quyền tiếp cận chỉ cho nhà bán buôn và những chủ thể kinh tế lớn, song song với việc áp dụng phí hay lãi suất phạt cho các khoản CBCD nắm giữ. Có nghĩa là CBDC cũng sẽ không bao giờ thay thế được tiền thật.

Nếu thực hiện phương án hạn chế sử dụng CBCD như trên thì tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng giá của một đơn vị CBCD không bằng giá của một đơn vị tiền thật. Về bản chất, điều này không có gì là phi lý, bởi mỗi  loại tiền phục vụ cho các đối tượng khách hàng khác nhau. Nhưng nếu ngân hàng trung ương thấy sẽ là không ổn nếu, giả sử, một USD tiền thật lại có giá trị khác với 1 USD tiền số, nên tìm cách xóa bỏ tình trạng này bằng cách cho chuyển đổi thoải mái giữa hai loại tiền, thì sẽ lại dẫn đến tình trạng sụp đổ hệ thống ngân hàng thương mại như nói trên.

Vì đây là điều mà các nhà làm chính sách muốn tránh bằng mọi giá nên rốt cuộc sự phân ly giá trị giữa tiền số và tiền thật sẽ phải được cho/để tồn tại. Nói cách khác, lúc đó trong nền kinh tế sẽ tồn tại cùng lúc hai loại giá khác nhau cho cùng một loại hàng hóa và dịch vụ, tùy thuộc chúng được đo lường bằng tiền thật hay tiền CBDC. Để đỡ phức tạp, có lẽ giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ sẽ được niêm yết bằng đơn vị tiền thật truyền thống, song song với tỷ giá chuyển đổi giữa tiền thật và CBDC nếu người tiêu dùng muốn thanh toán bằng CBDC, tương tự như cách mà nhà bán lẻ đề giá chưa có thuế và kèm thêm cạnh đó mức thuế cần trả, hoặc niêm yết bằng nội tệ đi kèm với tỷ giá ngoại tệ dành cho khách du lịch.

Bằng cách ngăn cách hai khu vực kinh tế dùng tiền thật và CBDC, ngân hàng trung ương có một công cụ điều tiết chính sách tiền tệ mới rất hữu hiệu. Thay vì phải dùng nghiệp vụ thị trường mở và tỷ lệ dự trữ bắt buộc để điều tiết lượng tiền bơm vào nền kinh tế như truyền thống, nay với CBDC, ngân hàng trung ương chỉ cần điều tiết lượng phát hành CBDC là có thể gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thực. Và hành động điều tiết CBDC của ngân hàng trung ương khi đó cũng sẽ là một chỉ số cho thấy đường hướng chính sách của ngân hàng trung ương mong muốn đối với nền kinh tế.

Cứ như vậy, khu vực tài chính dựa trên CBDC sẽ liên tục phát triển, kéo theo đó là mức độ số hóa của nền kinh tế, cũng như nhu cầu cao hơn đối với hệ thống thanh toán và chi trả dựa trên CBDC. Có thể nói lúc đó nền kinh tế sẽ được chia thành hai khu vực song song tồn tại, một dựa trên tiền truyền thống, một dựa trên CBDC ngày càng phát triển, lấn lướt khu vực còn lại.

Sự ra đời của CBDC có làm cho các đồng tiền số tư nhân phát hành diệt vong không? Rất có thể câu trả lời là không. Bởi CBDC chỉ có thể đáp ứng một số mục đích mà không phải là tất cả. Chẳng hạn, nói về mục đích riêng tư, nặc danh, CBDC sẽ không đáp ứng tốt bằng các đồng tiền số tư nhân như bitcoin.

Bản thân các ngân hàng thương mại cũng có thể phản ứng lại sự lấn lướt, cũng như sự lựa chọn mang tính phân biệt người dùng của CBDC (chỉ cho phép các nhà bán buôn tiếp cận hệ thống CBDC...) bằng cách phát hành tiền số ổn định stablecoin gắn giá trị với CBDC. Việc này cho phép nhà bán lẻ và người tiêu dùng tiếp cận một cách gián tiếp với CBDC. Lúc đó, trong nền kinh tế sẽ tồn tại cùng lúc nhiều loại tiền, gồm CBDC, stablecoint, tiền thật truyền thống, tiền số tư nhân, và thậm chí cả CBDC do ngân hàng trung ương nước ngoài phát hành.   

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).