Friday, 25 June 2021

Phải thu được thuế của Google, Facebook: nhưng bằng cách nào? (Bài đăng trên KTSG, 25/6/2021, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/td/317638/phai-thu-duoc-thue-cua-google-facebook-nhung-bang-cach-nao.html

Ngành thuế luôn đặt quyết tâm bắt những ông lớn công nghệ của Mỹ như Google, Facebook, Youtube... phải trả thuế đúng và đủ cho doanh thu họ thu được ở Việt Nam. Mới đây, Cục thuế TP. Hồ Chí Minh kiến nghị Chính phủ nêu một số khó khăn và đề xuất các giải pháp để buộc các doanh nghiệp này phải thực hiện nghĩa vụ thuế tại Việt Nam, cũng như hợp tác cung cấp thông tin của các tổ chức và cá nhân tại Việt Nam có hoạt động kinh doanh và có thu nhập từ các doanh nghiệp này.(1)

Tuy nhiên, như phân tích dưới đây, những khó khăn và giải pháp mà Cục thuế thành phố kiến nghị lại không mấy hợp lý, thích đáng.

Khó khăn thứ nhất được Cục thuế thành phố nêu ra là, việc xác minh lý do dòng tiền ra vào các nhà mạng xã hội (tức các doanh nghiệp công nghệ trên) là rất khó khăn bởi thông tin tài khoản ngân hàng không thể hiện nội dung chuyển tiền.

Khó khăn nêu trên là khá hiển nhiên, bởi để tránh bị “nhòm ngó”, điều tra thì cả bên bán (doanh nghiệp công nghệ) và bên mua (người mua quảng cáo) đều có xu hướng thống nhất cách ghi mục đích chuyển tiền sao cho “an toàn” nhất. Với mục đích khai báo như vậy thì đúng là khó có thể truy ra doanh thu của cả hai bên để mà tính được thuế tương ứng.

Nhưng ngành thuế có thể khắc phục khó khăn này bằng cách yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thanh tra, tăng cường kiểm soát hoạt động thanh toán quốc tế giữa người cư trú và không cư trú qua hệ thống ngân hàng nội địa. Bởi đây là lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của các quy định pháp luật hiện hành về quản lý ngoại hối, trong đó có nghĩa vụ của ngân hàng là kiểm tra, xác thực mục đích và tính hợp pháp của việc chuyển tiền.

Một khi đã làm chặt khâu thanh toán, chuyển tiền quốc tế qua hệ thống ngân hàng thương mại dưới sự theo dõi, thanh tra chặt chẽ của NHNN thì sẽ không còn dễ dàng cho các tổ chức và cá nhân cư trú chuyển tiền ra nước ngoài cho các doanh nghiệp công nghệ trên (mà không khai báo đầy đủ, chính xác) nữa. Đồng nghĩa với đó là ngành thuế sẽ có thêm bằng chứng, căn cứ để điều tra thuế với các bên liên quan.

Khó khăn thứ hai mà Cục thuế nêu ra là có đến 34 trong tổng số 40 ngân hàng “không nhiệt tình” cung cấp thông tin liên quan đến các tổ chức, cá nhân có thu nhập từ Google, Facebook. Do đó, Cục thuế kiến nghị Chính phủ có quy định bắt buộc các ngân hàng phối hợp cung cấp thông tin cho cơ quan thuế, cũng như thực hiện việc khấu trừ nộp thuế theo quy định.

Không rõ khi nêu ra khó khăn trên, Cục thuế có nắm được tình hình rằng trên thực tế thì Chính phủ đã ban hành Nghị định 126/2020 hướng dẫn Luật Quản lý thuế 2019, trong đó quy định ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp các thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan thuế? Cũng dám chắc một điều là cả luật và nghị định này, cũng như các luật lệ liên quan khác đều là do chính ngành thuế dự thảo để Quốc hội, Chính phủ thông qua. Kiến nghị nêu trên của Cục thuế vì thế mà thành thừa và lạc đề.

Thay vào đó, ngành thuế có thể áp dụng các quy định về xử phạt trong Luật và Nghị định để (qua một bên thứ ba như NHNN, tòa án...) buộc tất cả các ngân hàng có liên quan phải “phối hợp” với họ như yêu cầu, theo đúng quy định nếu không muốn bị xử lý theo pháp luật.

Thứ ba, Cục thuế nêu khó khăn rằng Google và Facebook không đặt máy chủ tại Việt Nam nên (cơ quan quản lý nhà nước) không thể giám sát dòng tiền ra vào. Các doanh nghiệp này lại “lơ là” với việc kê khai và tự nộp thuế. Do đó, Cục thuế kiến nghị yêu cầu Google, Facebook đặt văn phòng tại Việt Nam rồi tự kê khai và thực hiện nghĩa vụ thuế. Nếu họ thực hiện nghĩa vụ thuế không đúng quy định thì cần có chế tài mạnh hơn.

Cần lưu ý rằng việc yêu cầu doanh nghiệp công nghệ đặt văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại Việt Nam đã được quy định chế tài rõ trong Luật An ninh mạng được thông qua tại Việt Nam năm 2018. Như vậy, việc kiến nghị buộc các doanh nghiệp này mở văn phòng tại Việt Nam cũng là... thừa.

Trong khi đó, vấn đề chủ chốt cần làm rõ là tại sao Google, Facebook lại “lơ là”, không đếm xỉa gì đến việc mở văn phòng tại Việt Nam mặc dù luật pháp Việt Nam có quy định như vậy?

Nếu họ vẫn thản nhiên, “bình an vô sự” đều đều thu tiền quảng cáo của doanh nghiệp và cá nhân mà phớt lờ yêu cầu phải có văn phòng ở Việt Nam thì có nghĩa là có một lý do nào đó đã cho phép, xui khiến họ làm vậy mà không sợ bị Chính phủ Việt Nam “trừng phạt” hay chế tài. Và vấn đề này chắc chắn nằm ở tầm/trên bàn đàm phán thuế quốc gia (với Mỹ) và quốc tế (ví dụ, như thỏa thuận thuế tối thiểu toàn cầu mới đây của nhóm quốc gia G7, trong đó có việc đánh thuế các doanh nghiệp công nghệ Mỹ). Những vấn đề này tuy không thuộc phạm vi bài viết, nhưng qua đó cho thấy ngành thuế dường như đã không cập nhật và phân tích thấu đáo tình hình thực tiễn trước khi đưa ra kiến nghị, giải pháp nói trên.

Xu hướng hợp tác quốc gia và quốc tế trong việc đánh thuế doanh nghiệp toàn cầu nói chung và các doanh nghiệp công nghệ Mỹ nói riêng như Google và Facebook cũng là một gợi ý cho thấy Việt Nam nên xử lý vấn đề thuế đối với các doanh nghiệp này như thế nào, thay cho phương pháp tiếp cận duy ý chí mà ngành thuế đã và đang đề xuất.

(1) https://nld.com.vn/kinh-te/phai-thu-duoc-thue-cua-google-facebook-tai-viet-nam-20210608204510182.htm


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).