Monday 28 June 2021

Khó khả thi đề xuất hạ lãi suất tiền gửi VND về 0% (Bài đăng trên Đầu tư, 29/6/2021, bản gốc)

https://baodautu.vn/kho-kha-thi-de-xuat-ha-lai-suat-tien-gui-vnd-ve-0-d145993.html

Mới đây, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (Vafi) đề xuất đưa dần lãi suất tiền gửi VND về mức 0% như các nước trong khu vực.

Cơ sở đề xuất này trước hết là lãi suất tiền gửi đồng nội tệ tại các nước trong khối ASEAN gồm Thái Lan, Philippines, và Singapore đang ở mức rất thấp (0% cho tiền gửi ngắn hạn, 0,2-0,7% cho tiền gửi dài hạn). Trong khi đó, Việt Nam đã có những tiền đề kinh tế vững chắc như các nước trong khu vực để có thể đưa lãi suất tiền gửi dần về 0% gồm chính trị ổn định; tăng trưởng kinh tế cao, ổn định; xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng với tốc độ 2 con số, đưa Việt Nam lên vị thế xuất siêu; dự trữ ngoại hối tăng mạnh; thị trường chứng khoán phát triển mạnh bất chấp đại dịch; hệ thống ngân hàng nội địa vững mạnh...

Để hiện thực hóa mục tiêu trên, Vafi đề xuất hạn chế mạnh dòng tiền đầu cơ chảy vào thị trường bất động sản, kiểm soát không cho tăng giá đất, áp dụng thuế tài sản lũy tiến... Dòng tiền nhàn rỗi sau đó  sẽ được hướng vào thị trường trái phiếu với lãi suất huy động dưới 2%/năm. Đồng thời tiến hành thu phí tiền gửi ngoại tệ để ngăn chặn dòng tiền nhàn rỗi đổ vào đầu cơ ngoại tệ.

Đề xuất của Vafi như trên thiếu thuyết phục trên một số phương diện.   

Trước hết, Vafi mới chỉ so sánh lãi suất của Việt Nam với của Thái Lan, Philippines và Singapore mà không phải là với các nước khác như Malaysia và Indonesia.

So sánh lãi suất với Singapore là khá khiên cưỡng, bởi nền kinh tế Singapore đã đạt đẳng cấp của các nước đã phát triển phương Tây, nơi mà lãi suất tiền gửi nội tệ tất nhiên là thấp và rất thấp. Nhưng cũng cần lưu ý rằng không phải tự nhiên lãi suất ở những nước này thấp, bởi chí ít nhà đầu tư vẫn được tự do mang vốn đầu tư ra nước ngoài tìm kiếm những cơ hội đầu tư tốt hơn trong nước, chứ không bị kiểm soát như ở các nước mới nổi như Trung Quốc, Việt Nam.

Trong khi đúng là lãi suất tiền gửi của Thái Lan tương đối thấp, với lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1 năm dao động từ 0,4% đến 1,35%/năm (1), con số này thực ra vẫn còn cách khá xa lãi suất đề xuất 0%.

Đối với Philippines, lãi suất tiền gửi nội tệ kỳ hạn 1 năm hiện đứng ở mức rất thấp như Vafi nêu (cao nhất là khoảng 0,75%/năm). Nhưng, như nói thêm ở dưới đây, có lẽ chỉ có Philippines là nước duy nhất trong số các nước ASEAN-5 là có lãi suất rất thấp, gần với mức đề xuất 0% nhất.

Lãi suất tiền gửi nội tệ kỳ hạn 1 năm tại các ngân hàng thương mại của Malaysia hiện dao động trong khoảng 2,3%-3,03%/năm (2). 

Với Indonesia, lấy ví dụ về lãi suất tiền gửi nội tệ kỳ hạn 1 năm tại ngân hàng DBS, lãi suất này dao động từ 3,75% đến 4% tùy thuộc số tiền gửi (3).

Như vậy, có thể nói lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1 năm trong nhóm các nước ASEAN-5 biến thiên khá mạnh, từ gần 0% (Singapore, Philippines) lên đến trên 3%-4%/năm (Malaysia, Indonesia), với Thái Lan đứng ở giữa. Nói cách khác, nếu muốn so sánh với các nước trong khu vực thì thực ra cũng không thể rút ra kết luận rằng lãi suất trong khu vực (ASEAN) đang ở mức rất thấp, gần 0% như Vafi lập luận.

Điều thiếu thuyết phục thứ hai của Vafi là việc siết các khoản đầu tư mang tính đầu cơ vào bất động sản. Đây là một biện pháp theo nghĩa đen là bịt một đầu ra của tín dụng, chặt bớt một kênh đầu tư để tiền của dân cư và doanh nghiệp chỉ loanh quanh trong những kênh tiền gửi, những cơ hội đầu tư hữu hạn còn lại.

Sự thiếu thuyết phục nằm ở chỗ, gần như không thể phân biệt được sự đầu tư với đầu cơ. Nếu siết đầu tư vào bất động sản thì có nghĩa là loại trừ việc kinh doanh bất động sản, bởi lúc này nếu kết hợp với đánh thuế lũy tiến như Vafi đề xuất thì việc cá nhân hay tổ chức nào đó kinh doanh bằng cách nắm giữ trên một bất động sản sẽ trở nên quá đắt đỏ, làm cho việc kinh doanh bất động sản không còn hấp dẫn nữa. Nhưng tại sao lại phải đối xử phân biệt với một ngành kinh doanh như vậy, trong khi ngành kinh doanh nào mà chả có nạn đầu cơ, ví dụ như thép, nguyên liệu sản xuất? Nói cách khác, đầu cơ là bản chất của kinh tế thị trường, có gì là xấu, phải triệt tiêu?

Quan trọng hơn, kể cả siết tín dụng vào bất động sản kết hợp với đánh thuế lũy tiến, việc này chưa chắc đã hạn chế dòng tiền chảy vào bất động sản một khi nhu cầu thị trường vẫn mạnh, đủ để hấp dẫn nhà đầu tư/đầu cơ bỏ vốn vào bất động sản. Điển hình cho chuyện này là các ví dụ về sốt bất động sản ở các nước phát triển và ở Hong Kong, Trung Quốc và Singapore như hiện nay, bất chấp các nước này đã áp dụng nhiều biện pháp hạn chế đầu cơ bất động sản, gồm đánh thuế cao.

Đó là chưa kể, nếu bịt được dòng tiền chảy vào bất động sản thì nó sẽ tìm cách chảy vào đâu đó, ít nhất là vào chứng khoán và vàng. Xét kênh chứng khoán trước, thay vì để xảy ra đầu cơ trong bất động sản thì nay sẽ có nạn đầu cơ nghiêm trọng hơn trong lĩnh vực chứng khoán, nếu mọi thứ khác không thay đổi. Không lẽ Vafi coi sốt nóng và bong bóng chứng khoán lại không nguy hiểm, lại tốt hơn là sốt nóng và  bong bóng bất động sản?

Tương tự, vì việc nắm giữ và đầu tư/đầu cơ vàng là một việc làm hợp pháp, chính đáng, nên nếu siết đầu tư bất động sản thì, ngoài thị trường chứng khoán, thị trường vàng có khả năng sẽ lại nóng sốt quá mức, và rủi ro đính kèm theo đó cũng khó có thể nói là nhỏ hơn so với rủi ro của sốt đất, bong bóng bất động sản. Và có lẽ Vafi đã quên không đề xuất đánh thuế, phí mua bán, nắm giữ vàng?

Vafi đã khôn khéo đề xuất thu phí tiền gửi ngoại tệ như là một cách khác để chặn thêm các kênh đầu tư khác ngoài bất động sản, tạo điều kiện ngân hàng giảm lãi suất tiền gửi nội tệ. Tuy nhiên, dù điều này có một phần tác dụng “làm khó” cho người có tiền đang tìm cơ hội đầu tư ngoài gửi tiền vào ngân hàng, nó cũng sẽ mất tác dụng nếu rốt cuộc nhà đầu tư tính toán thấy khả năng đầu cơ, nắm giữ ngoại tệ vẫn là có lợi khi ngoại tệ có xu hướng lên giá mạnh so với tiền đồng, thừa đủ bù đắp mọi loại phí phát sinh phải trả. Đây cũng là lý do vì sao hiện nay lãi suất tiền gửi USD là 0% nhưng vẫn có nhiều người chọn gửi bằng USD thay vì tiền đồng.

Rất có thể đến lúc này Vafi lập luận thế thì cần phải nâng cao hơn nữa phí nắm giữ USD. Vậy, cũng tương tự như với bất động sản, thuế phí cao đến mấy nhưng rốt cuộc vẫn có nhu cầu cho bất động sản hay USD để rồi nhà đầu tư/đầu cơ vẫn thu lãi được từ những hàng hóa này.

Nói tóm lại, để đề xuất của Vafi thành hiện thực thì phải triệt để chặn đứng, ngăn cấm được một cách tuyệt đối tất cả các kênh đầu tư khác ngoài trái phiếu ngân hàng. Vì điều này là không tưởng nên đề xuất của Vafi cũng là không tưởng, ít nhất cho đến khi Việt Nam... lọt vào hàng ngũ các nước phát triển.

-------

(1) https://www.bot.or.th/english/statistics/_layouts/application/interest_rate/in_rate.aspx

(2) https://ringgitplus.com/en/blog/fixed-deposits/best-fixed-deposit-accounts-in-malaysia.html

(3) https://www.dbs.id/digibank/id/en/investasi/produk-investasi/deposito


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).