Friday 18 June 2021

Thanh toán không dùng tiền mặt: Cần dung hòa lợi ích (Bài đăng trên KTSG, 18/6/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/317411/thanh-toan-khong-dung-tien-mat-can-dung-hoa-loi-ich.html/#292898 

Cục Thuế TP HCM vừa có kiến nghị Chính phủ sớm quy định việc các tổ chức áp dụng thanh toán không dùng tiền mặt với tất cả giao dịch bán ra và mua vào, không giới hạn tổng giá trị thanh toán. Lý do là để, theo giải thích của cơ quan này, “hỗ trợ cơ quan thuế trong việc kiểm soát doanh thu và chi phí của các tổ chức có hoạt động sản xuất - kinh doanh, tăng cường tính nghiêm minh trong công tác quản lý thuế”.

Như vậy, có thể nói kiến nghị trên chỉ để phục vụ cho sự tiện lợi của ngành thuế là chính, mà quên đi sự bất tiện, thậm chí là tổn hại đến lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và người dân.

Thế giới cũng dường như không có tiền lệ

Nói “dường như” chỉ là để đề phòng trường hợp có thể có một (số) nước nào đó “độc đáo” như Việt Nam trong việc đề xuất (và sẽ áp dụng) quy định doanh nghiệp áp dụng thanh toán không dùng tiền mặt với mọi giao dịch, mọi giá trị. Chứ còn điểm qua sơ sơ một vài nước phát triển ở cả Á lẫn Âu như  Mỹ, Úc, Singapore, Thụy Điển và Hàn Quốc, nơi người dân và doanh nghiệp có đầy đủ mọi loại hình thanh toán, và thanh toán không dùng tiền mặt đã phổ biến từ lâu và ngày càng phát triển thì doanh nghiệp cũng không bị bắt buộc phải thanh toán không dùng tiền mặt.

Xin nhấn mạnh điều này: Ở những nước này, nói chung, không có luật nào quy định doanh nghiệp (tư nhân) phải chấp nhận thanh toán bằng tiền mặt. Nói cách khác, doanh nghiệp có quyền hợp pháp từ chối nhận tiền mặt, nếu muốn.(1)(2) Nhưng điều này không có nghĩa là luật pháp bắt buộc doanh nghiệp phải từ chối thanh toán bằng tiền mặt.

Gần đây ở một số nước nổi lên chuyện doanh nghiệp không chấp nhận tiền mặt, nhưng đó nhiều khi vì lý do rất đơn giản là giữ vệ sinh, an toàn trong đại dịch, chứ không phải vì lý do thuế khóa hay bị luật pháp cấm đoán gì. Do đó, nếu không “quan ngại” chuyện vệ sinh thì doanh nghiệp ở nước ngoài vẫn hoàn toàn có thể tiến hành giao dịch bằng tiền mặt một cách hợp pháp.

Cần nói thêm rằng, ở Hàn Quốc, nước đứng đầu trong danh sách top 10 các nước thanh toán không dùng tiền mặt nhiều nhất thế giới, vẫn có đến 14% tổng số giao dịch thanh toán là dùng tiền mặt, và vẫn có 23% dân chúng thícdh dùng tiền mặt hơn là các phương tiện thanh toán phi tiền mặt, theo một cuộc khảo sát của Global Web Index.(3)

Có cả lợi và hại

Cũng như cái nhìn của ngành thuế Việt Nam, thanh toán không dùng tiền mặt rõ ràng đem đến một cái lợi lớn cho nhà chức trách ở chỗ nó làm cho doanh nghiệp khó che giấu, ngụy tạo các khoản thu chi để trốn thuế. Đồng thời, nó cũng có lợi cho nhà chức trách ở cái nghĩa là giảm thiểu nguy cơ rửa tiền vì nhà chức trách có thể truy vết được bọn tội phạm.

Đối với doanh nghiệp, thanh toán không dùng tiền mặt, ngoài cái lợi về chuyện vệ sinh như nói trên, còn được lợi từ chuyện ít bị cướp bóc, ăn trộm hơn bởi không giữ tiền mặt tại doanh nghiệp; giảm chi phí hoạt động do không phải kiểm đếm, lưu trữ tiền mặt...

Ngược lại, doanh nghiệp khi chỉ chấp nhận thanh toán bằng tiền mặt thì họ sẽ phải chịu chi phí phát  sinh, ví dụ chi phí thẻ tín dụng, vốn có thể là đáng kể, đặc biệt đối với doanh nghiệp nhỏ. Tất nhiên là doanh nghiệp hoàn toàn có thể bắt khách phải chịu các chi phí này, nhưng như thế sẽ làm tăng giá hàng hóa, dịch vụ của họ, dẫn đến giảm doanh số bán hàng do khách hàng thấy đắt đỏ hơn. (Cũng cần biết là luật hiện hành của Việt Nam quy định khách hàng khi dùng thẻ tín dụng không phải trả thêm tiền hoặc phụ phí cho đơn vị chấp nhận thẻ - tức doanh nghiệp nhận thanh toán).

Về phía khách hàng của doanh nghiệp, bắt buộc phải thanh toán phi tiền mặt cũng phát sinh nhiều phí tổn và mối nguy hại cho khách hàng. Trước tiên phải kể đến nguy cơ bị lộ thông tin cá nhân khi dữ liệu bị xâm phạm. Tiếp đó, khi người tiêu dùng bị hack tài khoản hoặc gặp trở ngại/vấn đề kỹ thuật mà không tiếp cận được các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt thì họ... bó tay!

Đồng thời, dù xã hội có phát triển đến đâu vẫn sẽ có một bộ phận dân chúng hoàn không thể tiếp cận, không thể dùng được các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt (trong một số hoàn cảnh, thời điểm, địa điểm). Ở Việt Nam thì ít nhất trong nhiều năm tới sẽ tiếp tục còn nhiều người không có kiến thức, tài khoản ngân hàng, hay smartphone (cùng đó là tiếp cận internet) để tham gia vào xã hội thanh toán không dùng tiền mặt cao độ.

Và cuối cùng, có một lý do đơn giản làm cho nhiều người vẫn muốn dùng tiền mặt: Họ muốn kiểm soát chi tiêu của mình (tránh nguy cơ tiêu “phóng tay”), mà thường là sẽ khó thực hiện được khi sử dụng các phương tiện thanh toán khác như thẻ tín dụng chẳng hạn.

Như vậy, việc bắt buộc doanh nghiệp không được chấp nhận tiền mặt trong thanh toán sẽ chỉ làm lợi cho nhà chức trách, về mọi mặt, còn người tiêu dùng thì rõ ràng là chỉ có thiệt đi. Doanh nghiệp thì lợi hại đan xen, nhưng cũng khó nói là thanh toán không dùng tiền mặt sẽ tốt hơn cho họ về tổng thể, ít nhất là so với khi có thêm lựa chọn được chấp nhận tiền mặt.

Nói cách khác, nhà nước hãy thực thi đề xuất của ngành thuế khi nào mà quyền lợi của doanh nghiệp và người dân là không đáng để đánh đổi lấy sự tiện lợi cho ngành thuế.

Cũng có người đề xuất giải pháp trung dung hơn, theo đó thiết lập lộ trình giảm dần mức chấp nhận tiền mặt, từ 20 triệu đồng xuống 10, 5 triệu... để khách hàng và thị trường thích nghi dần. Vấn đề với giải pháp này và tương tự là chúng ít nhất đã bỏ qua bên lề một bộ phận dân chúng kiểu gì cũng không thể chi trả phi tiền mặt được, dù muốn. Chưa kể những quyền lợi hợp pháp khác liên quan của doanh nghiệp và người dân như nói ở trên khi họ được lựa chọn dùng tiền mặt. 

Để kết thúc, xin lưu ý rằng Ngân hàng Trung ương châu Âu, ECB, là một trong những cơ quan chức năng tiền tệ trên thế giới đã nhìn nhận rằng tiền số ngân hàng trung ương (CBDC) sẽ không thay thế mà chỉ bổ sung cho tiền mặt – thứ mà sự sản xuất (in tiền) sẽ còn tiếp tục.(4)

Vì tiền mặt cũng dùng để thanh toán nên khi nó tiếp tục được tồn tại mãi thì điều này có nghĩa là việc sử dụng tiền mặt để thanh toán sẽ không bao giờ bị cấm ở nhiều nước, nếu không muốn nói là cả thế giới, trừ...  Việt Nam!

--------

(1) https://www.patriotsoftware.com/blog/accounting/can-business-refuse-cash-is-it-legal/

(2) https://www.adamslawyers.com.au/can-a-business-legally-refuse-a-cash-payment/

(3) https://www.cnbctv18.com/photos/technology/top-10-countries-that-prefer-card-payments-over-cash-asian-country-takes-top-spot-8056691.htm

(4) https://hackernoon.com/how-cbdc-will-replace-cash-experiment-to-programmable-money-m5193z6a

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).